Search This Blog

Saturday, July 16, 2022

THƯ GỬI ĐẠI TÁ KQ ĐÀO HUY NGỌC

 

THƯ GỬI CỰU ĐẠI TÁ KHÔNG QUÂN

ĐÀO HUY NGỌC, LIỆT LÃO.

Bằng Phong Đặng văn Âu.

Kính thưa anh Đào Huy Ngọc,

Anh là Chánh Văn phòng của cựu Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ. Anh biết nhiều chuyện trong nội bộ Không Quân và biết nhiều chuyện của một số chính trị gia, một số vị lãnh tụ tôn giáo, một số tướng lãnh khúm núm đến Phủ Thủ tướng để xin ân huệ của Thiếu tướng Kỳ. Từ ngày mất nước 30 tháng 4, nhìn thấy rõ bộ mặt thật của nhiều kẻ xu phụ, chịu ơn mưa móc của ông Kỳ mà nay tráo trở, anh viết bài “Giây Phút Nát Lòng” dưới bút hiệu Liệt Lão, rồi ra Hạ Uy Di sống thầm lặng để được yên thân như một nhà tu đắc đạo, không màng đến chuyện thị phi.

Em tôn trọng quyết định của anh. Còn em, trẻ hơn anh mười tuổi, em cảm thấy mình có bổn phận gìn giữ thanh danh Người Lính Việt Nam Cộng Hòa bằng cách lên tiếng chống lại bọn buôn thần bán thánh, bọn con buôn chính trị làm mất chính nghĩa của Miền Nam. Em bất chấp chuyện thị phi.

Khi ông Kỳ lên làm Tư lệnh Không Quân, ông lập ra ban báo chí để Không Quân góp tiếng nói với tờ báo Chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa. Tên tờ báo là Lý Tưởng.

Sau năm 1975, Tướng Tư lệnh KQ Trần văn Minh ở San Jose cho ra lại tờ Lý Tưởng. Nhưng về sau, tờ báo tự ý đình bản vì thiếu người viết. Hội Không Quân tại Houston cử em phụ trách làm sống lại tờ Lý Tưởng và em đã phục vụ trong 10 năm liền. Trước hết, em đi tìm những cây bút của báo Lý Tưởng hồi còn trong nước để cộng tác. Chẳng hạn, nhà văn Mây Trời tức là Trung tá Trần Trung Chính, nhà văn Đào Vũ Anh Hùng … Em chấm dứt làm tờ Lý Tưởng, vì sau khi Ban Chấp hành Hội KQ Houston và Ban Biên tập đồng ý đăng bài Vàng Rơi Không Tiếc của nhà văn Đào Vũ Anh Hùng thì bị Thành bộ Mặt Trận Hoàng Cơ Minh khủng bố, đe dọa gây nên cái chết của anh Phạm Đặng Cường mà anh em sợ hãi, duy chỉ có một mình em tự bỏ tiền túi xuất bản tờ Thần Phong để hài tội côn đồ của Mặt Trận Hoàng Cơ Minh. Trong tình cảnh anh em bỏ rơi mình vì sự hăm dọa của một anh Trung Úy Hải Quân Đặng Viết Nghị (Bí danh Đặng Quốc Việt), thì rõ ràng anh em không sống với câu hát trong bài Không Quân Hành Khúc “Ôi Không Quân danh tiếng muôn đời và ra đi không cần ai tìm xác rơi”! Là người nêu lên câu khẩu hiệu “Không Bỏ Anh Em, Không Bỏ Bạn Bè” thì em phải sống cho xứng với khẩu hiệu đó.

Trước kia, em có hỏi tại sao Trung tướng không mời nhà văn Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh cộng tác với tờ báo. Đây là nguyên văn tướng Minh trả lời: “Tuy Đại tá Nguyễn Xuân Vinh là Tư lệnh KQ, nhưng ông mặn nồng với anh em đồng đội. Ở Mỹ lâu, có lẽ ông đã trở thành người Mỹ, vì ông không hề liên lạc, thăm hỏi bất cứ anh em Không Quân nào đến tỵ nạn tại Mỹ.” Nghe nói vậy, em thưa với ông Tư Lệnh: “Với chủ trương Không Bỏ Anh Em, Không Bỏ Bạn Bè, tôi xin phép ông Tư Lệnh cho tôi được mời cựu Đại tá Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh cộng tác với tờ báo mà anh em ở Houston yêu cầu em phụ trách”. Thật ra em không nhất thiết xin phép Tư Lệnh Trần văn Minh để mời nhà văn Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh cộng tác, nhưng vốn con nhà gia giáo thì phải biết kính trên nhường dưới để chứng tỏ nước đã mất, nhưng không phải là cái thứ “cá mè một lứa”!

Trước khi lên đường ra căn cứ Không Quân Nha Trang thụ huấn quân sự, khóa của tụi em tập họp tại sân Câu Lạc Bộ Huỳnh Hữu Bạc để nghe huấn lệnh của Tư Lệnh Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh. Đó là lần đầu tiên em được giáp mặt nhà văn Toàn Phong. Không ngờ vị Tư Lệnh Không Quân, tác giả cuốn Đời Phi Công mà lại có vóc dáng nhỏ thó đến như vậy và giọng nói lí nhí dù cố vểnh tai lắng nghe ông nói cũng chẳng hiểu được ông nói cái gì.

Thú thực với anh Ngọc rằng vì mang tính nghệ sĩ lãng mạn, nên khi lái xe đưa thằng bạn cùng học ở Đại học Khoa Học Sài Gòn vào Tân Sơn Nhất, thấy nó điền đơn gia nhập Không Quân, thì em cũng điền đơn. Kỳ thực, trước đó em chẳng bao giờ nghĩ đến gia nhập Quân Đội, vì sống trong xã hội trọng văn khinh võ, thì mình phải có mảnh bằng Đại Học để người đời không coi thường. Vả lại, trong gia tộc mình ai nấy đều có bằng cấp Đại Học, thì lại càng không thể bỏ đi lính. Đó là tâm lý cổ hũ của con nhà gia thế. Trong cuốn Đời Phi Công, tác giả Toàn Phong tả buổi tiệc của một gia đình trưởng giả có máu mặt, người khách nào cũng tự giới thiệu chức phận bác sĩ, kỹ sư, giáo sư Đại Học. Đến phiên, tác giả Toàn Phong tự giới thiệu với mọi người: “Tôi là người phi công của Đất Nước”. Nghe qua có vẻ khiêm tốn, nhưng hàm chứa một niềm kiêu hãnh. Hơn nữa, có lần nghe các sĩ quan Không Quân đi tuyển mộ khoe: “Không Quân là một ngành học uyên bác, một kiếp sống hải hồ, một cuộc đời ngang dọc” thì còn chờ đợi gì nữa mà không gia nhập? Vậy Không Quân đâu phải là cái thứ Khố Xanh, Khố Đỏ thời đại vua chúa?

Xin thưa với anh Ngọc rằng vì tự hào mình là “Người phi công của Đất Nước” nên em là một người lính rất tuân thủ kỷ luật, không đến các tiệm nhảy đầm cậy thế mình nhà binh say sưa, đánh lộn để làm xấu hình ảnh Người Lính Việt Nam Cộng Hòa. Khi tham gia Cầu Không Vận gồm 16 chiếc Dakota tiếp tế gạo cho tỉnh Ban Mê Thuột bị bão lụt, ông Chỉ huy trưởng lấy tên chiến dịch là “Kỳ-Duyên-Mai” (tên của ông Tướng Tư Lệnh, con và vợ ghép lại) em đứng lên phản đối ngay. Tại sao không lấy tên một vị anh hùng trong lịch sử để đặt tên chiến dịch, mà lại lấy tên Kỳ Duyên Mai? Làm như thế thì Việt Cộng có cớ tuyên truyền Quân chủng Không Quân đánh giặc cho gia đình ông Kỳ. Em nghĩ vậy có đúng không anh Ngọc? Một số người tham dự chiến dịch như Thiếu tá Nguyễn Uông, Thiếu tá Nguyễn Mộng Khôi là những chứng nhân còn sống, chứ đâu phải em bịa chuyện để nổ?

Ngày hôm sau được lệnh lên Văn phòng Tư Lệnh trình diện. Dọc đường đi, em tự nghĩ thầm: “Cùng lắm thì bị đổi sang Bộ Binh. Việc gì phải sợ?” Được người sĩ quan tùy viên mở cửa cho vào phòng trình diện Tư Lệnh, tôi thấy “Tướng Râu Kẽm” ngồi uy nghi sau chiếc bàn thật lớn, em làm thủ tục chào kính, xưng danh tánh, số quân. Ông Tướng đứng lên, tiến đến gần, bắt tay và nói: “Cậu xứng đáng là học trò Trường Chu văn An.” Em định cải chính em là học sinh trường Quốc Học Huế, nhưng biết ông Tư Lệnh của mình là cựu học sinh Chu văn An, nên em im lặng, không cãi chính. Từ giây phút đó, em rất cảm phục phong cách của ông Tư Lệnh, vì mình chống lại cái tên chiến dịch “Kỳ-Duyên-Mai” mà không bị ông đì. Tuy em chỉ bay một phi vụ huấn luyện với Tướng Kỳ khi ông làm Chỉ Huy trưởng Liên Phi Đoàn Vận Tải, nhưng em vẫn kính trọng ông là Người Thầy ở cái phong cách đối xử với đàn em.

Mất nước, ra hải ngoại, em vẫn cố nhớ mình là “Người Phi công của Đất Nước”, nhất định phải làm một cái gì cho Tổ Quốc để không mang tiếng là “kẻ tha phương cầu thực” hay “giá áo túi cơm”. Bởi thế, em mới liên lạc một số anh em Vùng Hoa Thịnh Đốn thành lập Ủy Ban Tranh Đấu Nhân Quyền Cho Việt Nam, gồm có một số gương mặt tên tuổi lãnh đạo tôn giáo, chính trị, Tướng lãnh như: Thượng tọa Giác Đức, Linh mục Trần Duy Nhất, ông Hà Thúc Ký (nguyên Chủ Đảng Đại Việt Cách Mạng, Nghị sĩ Đoàn văn Cầu, Dân biểu Nguyễn văn Kim, Bộ trưởng Tài chánh Châu Kim Nhân, Cụ Đổng Lý Bộ Xã Hội Chữ Ngọc Liễn (thân sinh nhà báo Chữ Bá Anh), Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, Tham vụ Ngoại giao Luật sư Lê Chí Thảo, Luật sư Đỗ Đức Hậu, bà Lê Thị Anh (đại diện Hòa Hảo). Về phía Quân đội thì có Trung tướng Nguyễn Bảo Trị, Trung tướng Phạm Quốc Thuần, Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh, Đại tá Nguyễn Hợp Đoàn (Tỉnh trưởng Tuyên Đức), Trung tá Thủy Quân Lục Chiến Nguyễn văn Phán và em. Đặc biệt cụ bà Đức Thụ cao niên nhất, bạn đồng chí với bà Cả Tề cũng tham dự buổi họp do lời mời của em. Vào năm 1976, liên lạc một số nhân vật tên tuổi như vừa kể trên, đâu phải dễ dàng? Người đứng ra mời ít nhất phải có tư cách như thế nào thì họ mới nhận lời tham dự chứ, phải không anh Ngọc?

Nhờ lập ra Ủy Ban Tranh Đấu Nhân Quyền cho Việt Nam, em mới biết trong Hải Quân có ông Phó Đề đốc tên là Hoàng Cơ Minh. Sau khi nghe em thuyết trình lý do nào chúng ta cần phải tập hợp nhau để yêu cầu Chính quyền của Tổng thống Jimmy Carter đòi hỏi bọn Việt Cộng phải tôn trọng quyền làm người cho dân tộc Việt Nam, vì ông Jimmy Carter đang sử dụng sách lược Nhân Quyền để chống chủ nghĩa cộng sản.  Sau buổi họp, Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh mới đứng gần bên em và nói: “Tôi tưởng cậu là phi công bay bướm, chỉ biết lái máy bay, không ngờ cậu cũng khá giỏi về nhận thức chính trị”. Em cám ơn lời khen của ông Tướng Hải Quân, nhưng trong lòng thầm nghĩ mấy ông Tướng thường cho rằng sĩ quan cấp dưới không thể có suy nghĩ (tư duy) bằng mấy ông Tướng được.

Hình như nghiệp chướng của dân tộc, anh Ngọc ạ! Ủy Ban Tranh Đấu Nhân Quyền cho Việt Nam tổ chức vài cuộc biểu tình trước White House tại Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và trước tòa nhà Liên Hiệp Quốc tại New York được vài lần thì “anh đi đường anh, tôi đường tôi. Tình nghĩa đôi ta có thể. Đã quyết không mong sum họp mãi. Bận lòng chi nữa lúc chia phôi?”. Ông Hoàng Cơ Minh đi làm Kháng Chiến, thế là Ủy ban Tranh Đấu Nhân Quyền cho Việt Nam tự động tan rã.  Anh Hoàng Cơ Minh thường tới nhà em mỗi đêm, ăn mì gói, uống trà, hút thuốc lá và bàn chuyện cứu nước. Em nói với anh Minh cần nỗ lực xây dựng Cộng Đồng để giữ phòng tuyến phi cộng sản cuối cùng trên đất Mỹ. Khoan hãy nghĩ đến chuyện giải phóng Việt Nam bằng cuộc cách mạng vũ trang. Anh Minh nói: “Con có khóc thì Mẹ mới cho bú. Mình phải tự làm một cái gì trước, thì mới mong Hoa Kỳ ra tay giúp mình”. Em trả lời: “Đối với người Mẹ thương con thật lòng, thi câu anh nói là đúng! Nhưng gặp bà Mẹ đã ném con đi, để theo trai, thì anh trông đợi được gì?” Rất nhiều đêm anh Minh và em tranh luận với nhau, tốn rất nhiều bao thuốc lá, bao nhiêu ấm trà, nhưng không đi tới đâu, vì em vẫn giữ lập trường phải xây dựng phòng tuyến của chúng ta trước, đừng cho Việt Cộng xâm nhập. Cuối cùng anh Minh nổi cáu, phán một câu xanh dờn: “Cậu chỉ giỏi lý thuyết, không dám dấn thân!” Em cũng nổi cáu và đáp trả: “Được rồi, anh cứ việc cho tôi là thằng hèn, chết nhát, không dám dấn thân. Nhưng xin anh đừng quên tôi từng vào sinh ra tử nơi chiến trường, tôi không phải là thứ lính kiểng. Nếu anh không nghe lời tôi, anh vẫn tiến hành cuộc cách mạng vũ trang, anh sẽ trở thành thảo khấu!” Từ đó chúng tôi chia tay. Và kết quả Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh trở thành thảo khấu, giống như ông đã tâm sự với Kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa!

Thưa anh Đào Huy Ngọc.

Lén lút chui vào các tổ chức Chống Cộng là ngón nghề của Việt Cộng. Cho nên, em đã cùng một số anh em tại Houston bàn tính nhau thành lập Hội Văn Hóa Khoa Học để truyền đạt cho những trí thức trẻ Việt Nam hiểu thủ đoạn, âm mưu của Việt Cộng nhằm giúp họ tránh khỏi sự dụ dỗ của Việt Cộng. Anh Nguyễn Ngọc Bảo làm việc tại NASA được những anh em trí thức trẻ bầu làm Hội Trưởng Nhóm. Anh em tổ chức buổi ra mắt Nhóm tại Houston và em đích thân mời Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh làm “keynote speaker”. Em đề nghị anh em trong Nhóm dành cho Giáo sư Vinh một sự ngạc nhiên bằng cách chọn ngày 1 tháng 3 là ngày sinh nhật của Giáo sư để ra mắt. Cuối buổi họp, chiếc bánh sinh nhật được dọn ra trước sự cảm động và ngạc nhiên của Giáo sư Vinh. Thử hỏi trong những người anh em Không Quân, đã có ai đối xử với vị Cựu Tư lệnh của mình với đầy đủ tình nghĩa như thế?

Em mời Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh giữ chức Chủ tịch Hội Văn Hóa Khoa Học tại Houston làm hạt nhân và dần dần phát triển Nhóm hiện diện trên các Tiểu bang Hoa Kỳ và Thế Giới. Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh vừa là Tiến sĩ Toán, dạy Đại Học Hoa Kỳ và vừa là nhà văn được giải thưởng của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Ngoài Giáo sư Vinh ra, đâu còn ai xứng đáng hơn để giữ vai trò Chủ tịch Hội Văn Hóa Khoa Học? Thế nhưng Giáo sư Vinh từ chối mà chẳng nêu lên lý do gì mà không nhận lời.

Năm 2003, em được tin đảng Việt Tân muốn mời một ông Tướng làm Chủ tịch Tập thể Chiến sĩ VNCH. Các ông Tướng ở vùng San Jose, bản doanh của băng đảng Việt Tân, như Tướng Bùi Đình Đạm, Tướng Lâm Quang Thi, Tướng Nguyễn Khắc Bình … đề nghị cử Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh, vừa là cựu Tư Lệnh KQ, vừa là người không dính líu đến nền Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa thì tiện việc sổ sánh hơn. Em biết việc thành lập Tập thể Chiến sĩ là âm mưu của Việt Tân, muốn biến các cựu Quân nhân thành các cơ sở ngoại vi của Việt Tân. Em liền gọi cho Giáo sư biết để đừng nhận lời. Em nói với Giáo sư Vinh: “Anh rời Quân Đội đã lâu, nên anh không hiểu tâm lý của anh em cựu Quân nhân bằng em đâu! Nếu anh mà nhận lời, thì em bảo đảm với anh rằng sẽ không làm được việc gì cả đâu!” Câu nói ý nhị của em là ngầm nói cho ông Vinh hiểu ông là người được Tổng thống Ngô Đình Diệm cho sang Mỹ để lấy bằng Tiến sĩ về giúp nước. Nhưng học thành tài, ông làm đơn xin Chính phủ Mỹ ở lại Mỹ để hành nghề dạy học. Nước Mỹ vốn trọng nhân tài, chấp thuận đơn xin của Giáo sư Vinh là điều dễ hiểu. Nhưng đứng về phương diện chính đáng, Quốc gia Việt Nam cần nhân tài hơn Mỹ, mà Giáo sư xin ở lại Mỹ, tức là Giáo sư là Người Lính Đào Ngũ.

Nếu Giáo sư Vinh là người tha thiết với Quân Đội thì ông phải là một “activist” đấu tranh với Chính phủ Hoa Kỳ để buộc Hà Nội thả những anh em Quân Nhân bị Việt Cộng đưa vào Trại Tập Trung (Concentration Camp) và thường xuyên đến sinh hoạt với các Hội đoàn Quân Đội, thì dù ông có quá khứ đào ngũ đi nữa, anh em Cựu  Quân Nhân sẵn sàng quên đi cái quá khứ của ông. Ngược lại, bỗng nhiên Giáo sư Vinh trở thành Chủ tịch Tập thể Chiến sĩ thì ai cũng thấy ông được một tổ chức ẩn danh dọn mâm cỗ cho ông xơi.

Ông Nguyễn Xuân Vinh nhận chức Chủ tịch Tổng Hội Chiến sĩ, mặc dầu em đã khuyến cáo cho ông biết đó là tổ chức Ngoại vi của Việt Tân. Để thử lại bài toán, em gọi điện thoại đề nghị Tập thể Chiến sĩ phải có một tờ báo để làm cơ quan ngôn luận nhằm chống lại Nghị Quyết 36 của Việt Cộng và chống lại thủ đoạn chia rẽ Cộng Đồng của băng đảng Việt Tân. Nếu ông Chủ tịch Tập thể Chiến sĩ đích thực là người Chống Cộng và quan tâm đến sự đoàn kết Cộng Đồng thì phải nghe theo lời đề nghị hữu lỳ của em, vì đó là việc chính đáng cần làm và có thể làm để chống lại âm mưu chia rẽ Cộng Đồng và bộ máy tuyên truyền của Việt Cộng. Với một cơ quan ngôn luận do những người đứng đắn, yêu lý tưởng tự do dân chủ điều hành, chắc chắn sẽ gây lại Niềm Tin nơi quần chúng và đặc biệt là giới trẻ. Nhưng Giáo sư Vinh không làm, vì Việt Tân đâu có cho phép ông làm điều đó?

Cuối năm 2017, Khóa 14 Võ Bị Đà Lạt kỷ niệm 60 năm nhập ngũ, tổ chức họp mặt. Em được Trung tá Cao Xuân Lê mời tham dự. Tự nhiên Thiếu tướng Lê Minh Đảo tới bàn em ngồi với Trung tá Cao Xuân Lê và đưa tay chào em theo lối nhà binh. Em vội đứng lên đáp lễ. Thiếu tướng Lê Minh Đảo nói: “Anh từng đọc nhiều bài viết của em và đặc biệt những bài em phản bác Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh. Anh chịu em lắm! Không ngờ em có mặt trong buổi tiệc này, anh phải đến chào em!” Từ sau buổi đó, Tướng Đảo thường xuyên gọi điện thoại thăm em. Rất buồn khi được tin Tướng Lê Minh Đảo qua đời.

Thưa anh Đào Huy Ngọc,

Em không cần biết ai nghĩ gì, nói gì về ông Tướng Lê Minh Đảo, nhưng qua cung cách người đàn anh đến chào thằng lính đàn em thân tình như thế là một niềm vinh dự. Tướng Đảo nói tiếp: “Nếu anh sang Mỹ mà gặp em sớm, thì anh không bao giờ tham gia Tập thể Chiến sĩ”. Nhiều cựu sinh viên Khóa 14 Võ Bị đứng chung quanh Tướng Đảo đều nghe câu nói đó.

Khi ra trường ở Pháp về, ba nhân vật được đảm trách vị trí Chỉ Huy đơn vị Không Quân do Thực dân Pháp trao lại vào ngày 1 tháng 7 năm 1955, là ông Huỳnh Hữu Hiền làm Chỉ huy trưởng Phi đoàn I Khu trục, ông Nguyễn Ngọc Loan làm Chỉ huy trưởng Phi đoàn I Quan sát và ông Nguyễn Cao Kỳ làm Chỉ huy trưởng Liên Phi đoàn 43 Vận tải, gồm 2 Phi đoàn 413 và Phi đoàn 415. Riêng Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh, chẳng biết vì lý do gì, khi ra trường chỉ được đeo cấp bậc Chuẩn Úy, còn tất cả sinh viên sĩ quan Khóa I Nam Định hay Khóa I Thủ Đức ra trường, đều mang lon Thiếu Úy. Cho nên, sau khi học xong nghề lái máy bay ở Marrakech về nước, ông Nguyễn Xuân Vinh được đổi ra Nha Trang làm huấn luyện viên loại máy bay Morane-500 do Thực dân Pháp để lại. Trường Không Quân Salon chỉ dạy địa huấn, còn sinh viên nào muốn trở thành phi công, thì phải sang trường bay Marrakech ở Morocco thụ huấn.

Thiếu tá Đỗ Mậu làm Quân Trấn trưởng thị xã Nha Trang, một đảng viên cao cấp đảng Cần Lao, thường tổ chức các buổi học tập về chủ nghĩa Cần Lao Nhân Vị của ông Cố vấn Ngô Đình Nhu. Giáo sư Vinh tìm cách tiếp cận với ông Đỗ Mậu. Nhờ sự khôn khéo, Giáo sư Vinh gia nhập đảng Cần Lao và được ông Đỗ Mậu tiến cử với Tổng thống Ngô Đình Diệm. Máy bay Morane-500 nhẹ hơn chiếc máy bay L-19. Thế mà Giáo sư Vinh dạy học trò, đập 2 chiếc, nên Thiếu tá Nguyễn Ngọc Oánh, Chỉ huy trưởng Căn Cứ Nha trang kiêm Chỉ huy trưởng trường huấn luyện phi hành đề nghị chuyển ông Vinh sang dạy địa huấn thay vì dạy bay.

Nhờ là đảng viên Cần Lao, tỏ ra rất trung thành với Tổng thống Diệm, nên đường công danh của ông Vinh thăng tiến một cách nhanh chóng. Ngành bay thì phải bay giỏi, làm con chim đầu đàn (Tư lệnh), thì thuộc cấp mới nể nang. Giống như một anh Y tá nhờ phe đảng mà lên làm Giám đốc Bệnh Viện thì chẳng ai coi ra gì. Hồi Ký của Tướng Đỗ Mậu viết: “Ông Nguyễn Xuân Vinh khi được vinh thăng Đại tá thì mang cặp lon đến tư gia ông Đỗ Mậu, nhờ chính tay ông Đỗ Mậu gắn cặp lon Đại tá lên đôi vai mình để bày tỏ lòng biết ơn! Sự khéo léo ứng xử với “ân nhân” như vậy, Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh xứng đáng được ghi vào lịch sử. Sau khi xảy ra vụ phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn văn Cử ném bom Dinh Độc Lập, Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh đem cả ban nhạc Không Quân với trống kèn và nhân viên Bộ Tư Lệnh ra Bến Bạch Đằng làm lễ tạ tội Tổng thống Ngô Đình Diệm. Nhưng Tổng thống Diệm vẫn không coi Đại tá Nguyễn Xuân Vinh có khả năng chỉ huy Quân Chủng Không Quân. Tự biết mình bị thất sủng, Đại tá Nguyễn Xuân Vinh xin Tổng thống đưa vợ con ra nước ngoài du học. Có ai được đặc ân lạ kỳ như ông Vinh đi du học mà được đem theo cả vợ con? Nếu Giáo sư Vinh sau khi thành tài, ngoài việc đi dạy học, ông dành thời giờ đi diễn thuyết tại các Đại Học, giải thích vì sao dân Miền Nam phải chiến đấu chống lại chủ nghĩa cộng sản, thì dù ông đào ngũ vẫn còn có lý do chính đáng để bào chữa.

Chủ tịch Tập thể Nguyễn Xuân Vinh rất coi khinh anh em lính tráng, khinh chức vụ Tư Lệnh Không Quân, vì dưới mỗi văn thư ông ký, ông đều xưng danh Giáo sư. Em đã viết thư nhắc nhở ông Vinh về việc Tướng De Gaulle sau khi lên làm Tổng thống vẫn mang lon Thiếu tướng. Ông Nguyễn Cao Kỳ sau khi làm Thủ tướng vẫn mang lon Thiếu tướng, thăng chức Tổng Tham Mưu trưởng và gắn lon Đại tướng cho Trung tướng Cao văn Viên đấy thôi! Và Muammar Gaddafi, Tổng thống nước Lybia vẫn mang lon Đại tá đấy thôi.

Năm 1948, Hoa Kỳ giúp Do Thái lập quốc. Nhà bác học Albert Einstein được dân Do Thái mời về làm Tổng thống, nhưng nhà bác học từ chối vì biết mình không có khả năng lãnh đạo. Einstein giới thiệu ông David Ben Gurion làm Tổng thống thì nước Do Thái mới mạnh như ngày nay. Em góp ý xây dựng với giáo sư Nguyễn Xuân Vinh không phải ghét bỏ hay chống đối gì ông. Em chỉ muốn Tập thể Chiến sĩ không chỉ biết mặc quân phục, kéo cờ lên, hạ cờ xuống, phủ cờ, xếp cờ như nhà báo Sức Mấy Đinh Từ Thức, ông vua viết phiếm, chế giễu Quân Đội của mình thôi. Em nghĩ nếu mình có ác ý thì mới im lặng, mặc kệ cho ông Tư lệnh bêu riếu Quân Đội để thiên hạ cười chơi. Nhưng vì tự hào mình đã đóng góp xương máu thì không thể lạnh lùng quay mặt đi trước sự kiện không làm gì của Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh. Đó là thái độ nghiêm túc, có tinh thần trách nhiệm và danh dự mà bất cứ Quân nhân nào đều phải làm. Sống trong thời đại mặc áo thụng vái nhau, người ta ưa vinh danh thì mình chỉ đành đứng ngó thôi!

Vừa rồi bà Nguyễn Khoa Diệu Quyên, vợ của nhạc sĩ Trúc Hồ chủ hệ thống truyền hình SBTN, làm tiệc vinh danh Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh, em thấy có nhiều Cụ đầu đã bạc tiến đến xoa chân nắn tay ông Cựu Tư Lệnh của mình bằng thái độ hết sức cung kính. Em mừng lắm, vì ông Tư Lệnh đã cao tuổi mà vẫn giữ được bộ mặt tươi cười đón nhận lời chúc tụng. Khi nghe tin ông Nguyễn Thượng Vũ báo Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh đã bị đưa vào “Hospice” thì em đã dâng lời cầu nguyện cho ông tai qua nạn khỏi để còn được hưởng nhiều lần vinh danh của thiên hạ! Em không chủ ý nói xấu Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh. Em chỉ muốn nói với anh em Không Quân rằng Quân Chủng của VNCH đã có một vị Tư Lệnh như thế để ... đừng buồn!

Em xin gửi đến anh Ngọc bài thơ em làm đề cao Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh đăng trên Giai phẩm Lý Tưởng do em phụ trách. Có một số độc giả chê em “lấy điểm” thượng cấp. Thế đấy! Cái lưỡi nói xuôi cũng được, mà nói ngược cũng xong!

THƯ GỬI BẠN

Bằng Phong Đặng văn Âu


Vũ ạ! Ngày xưa bọn chúng mình

Đứa trường Quốc học, đứa Bình Linh.

Trường ta công lập, ngươi trường Đạo,

Ta đọc thơ Kiều, ngươi đọc Kinh.

Chúng ta khắng khít trong tình bạn

Hôm sớm chăm lo việc học hành.

Lớn lên hai đứa, hai đường chọn:

Sư Phạm ngươi vào, ta nghiệp binh.

Ta biết ngươi thường yêu đám trẻ

Và mơ cuộc sống thật an bình.

Còn ta là đứa đầy sôi nổi

Không thể chôn đời nơi Đế Kinh.

Ta muốn phong trần như tráng sĩ,

Giang hồ nối bước Nguyễn Xuân Vinh.

Người yêu ta cũng tên là Phượng

Là cõi Không Gian thật hữu tình.

Trên đó mây trời căng gió lộng

Ngàn sao vũ khúc nhạc lung linh.

Ta đã yêu nàng như Tổ Quốc

Hề chi một chút tấm thân mình!

Ta vượt bao lần qua vỹ tuyến.

Quyết diệt tiêu tan bọn giả hình.

Ngươi hiểu lòng ta hơn hết thảy.

Ta nào khao khát việc đao binh,

Chẳng qua  sinh phải thời tao loạn,

Cưỡng được làm sao luật tiến trình?

Nhớ đến một lần về lại Huế

Thăm ngươi ta kể chuyện linh tinh

Những chuyến bay trên vùng đất địch

Ngươi đã cười ta giọng rẻ khinh!

Ngươi cho ta chạy theo hư ảo,

Giết người, xây đắp mộng công khanh!

Ta biết tính ngươi ưa triết lý,

Ưa ngồi vơ vẩn nghĩ loanh quanh.

Mẫu người lý tưởng trong sách vở

Rất hợp thời trang buổi thái bình.

Ngươi không thèm biết ai gây hấn,

Ai đã gieo mầm mống chiến tranh?

Ta cảm thương ngươi khôn kể xiết

Nhưng làm sao nói? Chỉ làm thinh!

Ngày kia ta đọc tin trên báo

Ngươi dẫn sinh viên xuống biểu tình

Khẩu hiệu hô hào nghe thật giống

Những lời yêu mị lão già Minh.

Vũ ơi! Ai đã làm ngươi khác

Từ một anh chàng của sử kinh

Một kẻ suốt đời yêu bóng mát

Dưới thuyền, trên bến, ánh trăng thanh,

Mà nay ngươi bỗng vung tay quát

Đòi Thiệu-Kỳ thôi cuộc lửa binh?

Đơn phương đòi Mỹ ngưng oanh tạc

San bằng tất cả Tổng Hành Dinh!

Rồi Tết Mậu thân quân giặc đến

Ngươi đã reo hò đón quỷ tinh

Bao nhiêu bằng hữu trong trường cũ

Ngươi nỡ đang tâm xử tử hình

Chôn sống bao người dân ốm đói

Ngươi cho rằng đó nhục hay vinh?

Bữa trước người cười ta khát máu

Hôm nay huynh đệ bất lưu tình.

Ngươi trả lời sao câu hỏi đó?

Cứu cánh gì đây để biện minh?

May nhờ Quân Đội ta uy dũng

Đánh đuổi xâm lăng khỏi thị thành

Tất tả ngươi chuồn theo lũ cướp,

Bưng biền chui rúc giống đào binh.

Mẹ ngươi đau khổ qua đời sớm

An táng ta lo chỉ một mình

Tội nghiệp cảnh nhà đơn chiếc quá

Mà ngươi sao nỡ dứt cho đành?

Ngươi tưởng ngươi đang làm cách mạng?

Quên nhà, quên nước, chỉ hy sinh

Cho cái chủ trương đầy lệ máu!

Phá tan nền tảng của gia đình.

Năm bảy mươi lăm ngươi chiến thắng.

Ta thành một kẻ sống lênh đênh

Lòng ngươi chắc hẳn vui mừng lắm,

Mở tiệc liên hoan nhảy dập dình?

Ngươi được phong hàm to lắm nhỉ

Hay là đi xuống cảnh cùng đinh?

Hôm qua ta được thư ngươi viết

Từ đảo Ga-lăng kể sự tình:

Đất Nước từ khi quân giặc đến

Nối liền thống khổ đến điêu linh

Người dân nghèo khó hơn thời trước,

Ai nấy đều căm nỗi bất bình!

Tự do, Độc lập không còn nữa

Trại tù như nấm chốn Thần Kinh!

Ngươi đã ăn năn và hối hận

Dại khờ theo gót bọn yêu tinh

Ngươi bảo phen này thề chêt sống

Nhất quyết phanh thây quỷ hiện hình.

Ta mừng ngươi đã mau bừng tỉnh.

Dẫu đã mười năm qua thật nhanh.

Tuy trễ còn hơn đang ngụp lặn

Với loài quỷ đỏ máu hôi tanh.

Anh em ta sẽ bắt đầu lại

Nhắm hướng Trường Sơn hãy tiến hành

Dựng lại ngọn cờ trên Tổ Quốc

Nền vàng Sọc đỏ thắm nguyên trinh.

Nào hãy cùng ta nâng chén rượu,

Vỗ gươm mà hát khúc bình sinh!

 

Bằng Phong Đặng văn Âu

Bài đăng trên Giai phẩm Lý Tưởng KQ vào tháng 7 năm 1985 sau khi biết tin thằng bạn đã phản tỉnh đến đảo Ga-lăng.

https://khongquanc130.blogspot.com/2022/07/thu-gui-ai-ta-kq-ao-huy-ngoc.html

 

NÓI CHUYỆN NGHIÊM CHỈNH VỚI NGƯỜI CHỐNG CỘNG

 ĐÔI ĐIỀU NGHIÊM CHỈNH NÓI VỚI NGƯỜI CHỐNG CỘNG.

Bằng Phong Đặng văn Âu

Chúng ta là Con Người hơn loài vật ở chỗ có bộ óc và tiếng nói, đúng không? Chúng ta tự hào nòi giống Việt Nam có bốn ngàn năm Văn Hóa, đúng không? Vậy trước sự nguy vong của Tổ Quốc do Cộng Sản gây nên, tại sao chúng ta không dùng ngôn ngữ có văn hóa để thảo luận với nhau trong tinh thần tương thân tương ái để kẻ thù không coi ta là cái thứ man di, mọi rợ? Bà Mẹ Việt Nam đang cần những người con có giáo dục, có văn hóa, có khả năng đối đầu với mưu toan diệt chủng của Việt Cộng. Bà Mẹ Việt Nam không cần đến loại Chống Cộng “trình diễn” và lại càng  không cần đến bọn đầu đường xó chợ.

Trước đây, tôi có viết thư hỏi Tiến sĩ Xã hội học Trần Quang Thuận tại sao ông là phát ngôn viên chính thức của Trí Quang, người đóng vai trò lớn trong việc giật sập chế độ Việt Nam, mà ông không ở lại Đất Nước để hưởng thành quả cách mạng? Tại sao ông biết dưới sự đô hộ của đảng cộng sản, nước Việt Nam đã biến thành địa ngục trần gian, khiến cho hàng triệu người phải bỏ nước ra đi, mà ông lại hô hào Về Nguồn? Tôi viết bằng một lối hành văn nghiêm chỉnh, không mạ lỵ, không châm biếm. Lẽ ra một người có học như Trần Quang Thuận đã góp phần vào cuộc sụp đổ Miền Nam, phải trả lời để xác minh lập trường, quan điểm của ông ra sao trong tư cách người tỵ nạn cộng sản. Ông im lặng, vậy có phải ông Thuận đến nước Mỹ là có công tác do đảng Cộng sản giao phó?

Khi ông Trần Quang Thuận qua đời, tôi thấy có rất nhiều Nghị sĩ, Dân biểu VNCH đăng báo chia buồn với lời lẽ rất thống thiết. Tôi đã điện thoại cho một số Dân biểu và Nghị sĩ mà tôi quen để hỏi tại sao các ông lại chia buồn một người có công lớn với Việt Cộng: Giật sập chế độ VNCH! Vị nào cũng chối và bảo rằng không biết ai đã đưa tên họ vào danh sách Phân Ưu! Tôi khinh những ông Nghị sĩ, Dân biểu bị người ta “tự động” đưa tên mình vào danh sách Phân Ưu mà im lặng.

Nghị sĩ Lê Phước Sang nói với tôi: “Thôi anh Bằng Phong à! Ông bà mình nói nghĩa tử là nghĩa tận thì mình cũng phải tỏ ra bao dung với người vừa mới nằm xuống”. Câu nói của Nghị sĩ Lê Phước Sang làm tôi nhớ đến năm 1969, Hồ Chí Minh chết, Dân biểu Hồ Hữu Tường đề nghị thành lập một phái đoàn ra Hà Nội điếu tang. Lúc bấy giờ, tôi không thấy bất cứ nhà trí thức nào phê bình Dân biểu Hồ Hữu Tường làm chuyện ruồi bu! Năm 1968 Hồ Chí Minh đọc mật hiệu để cho quân xâm lăng Bắc Việt phát động cuộc xâm lăng Miền Nam, giết chết hàng chục ngàn người vô tội, tại sao Miền Nam lại phải gửi phái đoàn đi phúng điếu một tên sát nhân? Chỉ có Dân biểu Hồ Hữu Tường mắc bệnh tâm thần hay sao đó, mới đưa ra một đề nghị quái đản như thế? Lời đề nghị quái đản của Dân biểu của Hồ Hữu Tường, mà Nghị sĩ, Dân biểu, Tướng lãnh, trí thức đều im lặng, thử hỏi người chiến sĩ chiến đấu ngoài tiền tuyến còn có lòng dạ nào để hăng say chiến đấu không? Chiến đấu cho ai?

Khi trên Diễn Đàn có tin Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Xuân Vinh – Chủ tịch Tập thể Chiến sĩ – phải bị đưa vào “Hospice”, có lẽ tôi là một trong những người đầu tiên dâng lời cầu nguyện xin Ơn Trên phù hộ cho Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh tai qua nạn khỏi. Cho tới khi Luật sư Lê Duy San lên tiếng phản bác Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh không đào ngũ thì tôi mới góp ý bằng cách đem chuyện Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ mời Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh tham gia Nội Các, nên ra lệnh Trung tá Vũ Đức Vinh đến Bộ Quốc Phòng thu hồi cái cáo thị tầm nã, thì Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh mới về nước một cách hợp pháp. Sự kiện này, tôi đã viết vào năm 2004 khi Chủ tịch Tập thể Chiến sĩ Nguyễn Xuân Vinh viết Tuyên Cáo loại Nguyễn Cao Kỳ ra khỏi Cộng Đồng Tị Nạn Cộng Sản. Năm 2004, Đại tá Nguyễn Xuân Vinh và Trung tá Vũ Đức Vinh lúc bấy giờ hãy còn sống, còn khỏe mạnh, tại sao Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh và Trung tá Vũ Đức Vinh không lên tiếng? Vừa rồi, tôi viết một bức thư tâm tình với Đại tá Đào Huy Ngọc – Chánh Văn phòng của Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ – một nhân chứng lịch sử cuối cùng còn sống để cho mọi người hiểu rằng tôi không bịa chuyện.

Tôi viết: “Luật sư Lê Duy San phản bác Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh không đào ngũ, thì cũng đúng”, bởi vì Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ ra lệnh thu hồi tờ giấy “Cáo thị tầm nã” thì Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh đâu còn ở trong tình trạng đào ngũ nữa? Vậy thì cái việc Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh đào ngũ hay không đào ngũ đâu còn là vấn đề nữa để bận tâm, đúng không?

Bây giờ, tôi xin nói chuyện trước mắt. Năm 1954, Việt Cộng giả bộ tập kết về Hà Nội, nhưng Lê Duẩn và một số thành phần cốt cán lén lút quay lại để xây dựng hạ tầng cơ sở nhằm lật đổ Chính quyền Ngô Đình Diệm. Sau Tháng Tư năm 1975, Việt Cộng đã chiếm trọn lãnh thổ Việt Nam, nhưng chúng vẫn cảm thấy bất an. Chúng cho nhân viên Tình Báo trà trộn trong đoàn người tị nạn, cũng nhằm mục đích xây dựng hạ tầng cơ sở tại Hải ngoại như thời năm 1954. Từ lâu, tôi đã viết nhiều bài nghi ngờ Việt Cộng đã xâm nhập trong Mặt Trận Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh, giống Cụ Phạm Ngọc Lũy – Thuyền trưởng tàu Trường Xuân, Chủ tịch Phong trào Yểm trợ Kháng Chiến – viết trong Hồi Ký của Cụ, cũng bày tỏ mối nghi ngờ như tôi.

Tại sao tôi nghi ngờ ư? Bởi vì đó là kỹ thuật của Việt Cộng luôn luôn sử dụng để chống phá cái phe chúng gọi là địch, bắt buộc chúng phải chui sâu trèo cao vào tổ chức địch, để sử dụng địch cho mục tiêu của chúng. Chắc chắn gián điệp Việt Cộng đã nằm trong Mặt Trận thì chúng phải biết Mặt Trận có làm chuyện phi pháp. Từ đó chúng làm “blackmail” (chantage) để sai khiến Mặt Trận phải làm việc theo chỉ thị của chúng.

Mặt trận đã tan rã do tranh chấp giữa ông Hoàng Cơ Minh và ông Phạm văn Liễu. Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh đã chết từ năm 1987 trên đất Thái, đã được tờ báo Bangkok Post đăng tin và trong nước cũng đăng tin. Tại sao Mặt Trận phải giấu thông tin cho tới năm 2001 mới tiết lộ. Tôi hoạt động trong Mặt Trận Việt Nam Tự Do của Cụ Hà Thúc Ký biết tin Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh đã chết từ năm 1987. Phía bên giáo sư Nguyễn Ngọc Huy cũng biết tin về cái chết của Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh. Vậy tại sao Mặt Trận ngâm cái tin Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh chết cho tới 14 năm sau mới tiết lộ? Có người nói rằng Mặt Trận giấu tin Phó Đề Đốc chết là để tiếp tục thâu tiền yểm trợ Kháng Chiến. Điều đó chỉ đúng một phần. Cái phần quan trọng là phải cần thời gian để kiện toàn đảng Việt Tân và lập ra cái gọi là Tập thể Chiến sĩ để nắm lấy các cựu Quân Nhân. Việt Cộng biến Tập thể Chiến sĩ là một hình thức của Mặt Trận Tổ Quốc.

Vì đa số người tị nạn đến Mỹ là Quân nhân. Về sau có thêm những anh em H.O. đầy lòng căm phẫn Việt Cộng thì rất nguy hiểm. Phải tìm cách “nhốt” cái đám đó lại, để chỉ làm một việc duy nhất là mặc quân phục để “thượng cờ lên, hạ cờ xuống, phủ cờ, xếp cờ” như nhà báo Sức Mấy Đinh Từ Thức châm biếm trước đây mà thôi. Từ những chiến sĩ oai hùng chinh Nam phạt Bắc, trở thành Đại Đội Chung Sự chỉ lo việc ma chay, hiếu hỉ, thì còn có gì buồn hơn?

Tại sao Tập thể Chiến sĩ phải bị lãnh đạo bởi một người như Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh mà không phải là một ông Tướng nào khác? Tại sao trong Tập thể có nhiều gửi thư yêu cầu Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh từ chức mà Giáo sư cứ nắm lấy cái chức Chủ Tịch? Chức Chủ Tịch đâu có lãnh lương tiên gì, mà phải bám lấy? Nên nhớ rằng mỗi khi Việt Cộng thi hành một công tác gì đều luôn luôn “điều nghiên” đối tượng rất kỹ. Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh được nổi tiếng là người “văn võ toàn tài”, có bằng cấp Tiến sĩ thì rất dễ thu hút cái đám trí thức coi trọng bằng cấp. Hơn nữa, Giáo sư mắc chứng bệnh háo danh rất nặng, thì kẻ địch rất dễ cài vào một con mồi giỏi tài tâng bốc để đối tượng ngất ngây. Tôi rất ghét chạm vào đời tư người khác. Vì thế, tôi không bao giờ đụng đến đời tư của bất cứ ai. Tôi chỉ lên tiếng khi thấy những kẻ lợi dụng sự Chống Cộng để nổi danh hoặc để làm tiền phi pháp mà thôi. Ngay cả cái việc bà Phiến Đan dùng cựu học sinh Trường Nữ Trung Học Gia Long để tổ chức vinh danh Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh là một người “văn võ toàn tài” tôi cũng im lặng. Chỉ có những anh em Không Quân trẻ mới không biết gì nhiều về sự nghiệp bay bổng của Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh. Còn tất cả những Không Quân thời trước đều biết Tư lệnh Nguyễn Xuân Vinh tuy là Tư Lệnh Không Quân, nhưng chưa hề được xác định Hành Quân. Theo luật lệ, một người phi công sau khi ra trường, phải trải qua thời gian huấn luyện nữa để xác định Hành Quân. Giống như một sinh viên Luật sau khi ra trường phải thực tập trong một Văn phòng Luật sư thì mới được coi là Luật sư để hành nghề. Một phi công chưa xác định Hành Quân thì không thể coi là Văn Võ Toàn Tài. Giáo sư đưa tay ra nhận tấm "Plaque" và cái danh hiệu đó không đúng. Người có lòng tự trọng không ai làm vậy!

Cuộc chiến giữa Quốc – Cộng luôn luôn là cuộc chiến Tình Báo và Tuyên Truyền. Năm 1960, Việt Cộng lập và Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam và chọn một nhân vật trí thức uy tín của Miền Nam để làm Chủ tịch. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ là một trí thức danh tiếng của Miền Nam, không làm chính trị, đã được Việt Cộng đưa lên làm Chủ tịch bù nhìn, mà tất cả kế hoạch phá hoại Miền Nam đều nằm trong tay “Anh Hai Xe Ngựa”. Danh từ “Anh Hai Xe Ngựa” phải là người hoạt động trong giới Tình Báo thì mới biết.

Luật sư Nguyễn Hữu Thọ một hôm được một cô sinh viên Luật rất xinh đẹp mới ra trường, xin đến tập sự. Chính cô sinh viên xinh đẹp này là con mồi đưa Luật sư Thọ vào cạm bẫy ái tình mà Luật sư không hề hay biết. Giống như Đại tá Nhảy Dù Nguyễn Chánh Thi thất bại cuộc đảo chánh lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm, chạy sang tị nạn bên Nam Vang cũng được một cô gái xinh đẹp đến phục vụ “người hùng” và giới thiệu cho ông Đại tá Nhảy Dù một “người Cậu” để đàm đạo cho đỡ buồn. Năm 1963, Mỹ, một số Tướng lãnh và Phật giáo Ấn Quang đảo chánh Tổng thống Diệm thành công, Đại tá Nguyễn Chánh Thi trở về Việt Nam được lên chức Thiếu tướng và đưa “Ông Sáu” về làm quản gia cho mình. Nhờ Tình Báo Hoa Kỳ dò biết tại tư dinh của Tướng Nguyễn Chánh Thi có tín hiệu truyền tin đánh ra Hà Nội, thì mới khám phá “Ông Sáu” là tình báo viên cao cấp Việt Cộng.

Ngay trong Tổng thống phủ, Nguyễn Ngọc Nhạ là điệp viên Việt Cộng, đồng thời là Cố vấn Chính trị của ông Nguyễn văn Thiệu. Đáng lý ra Tướng Nguyễn Khắc Bình phải liên lạc với các cựu nhân viên Tình Báo của mình để xây dựng một mạng lưới Tình Báo nhằm chống lại sự xâm nhập của Việt Cộng. Tiếc thay! Tướng Nguyễn Khắc Bình lại là tay chân bộ hạ của Việt Tân, được cư dân ở San Jose phong cho cái chức “người ném đá không cần giấu tay”!

Lập ra tổ chức Tập thể Chiến sĩ là để đấu tranh chống lại Việt Cộng thi hành Nghị Quyết 36. Tôi đã bao lần gọi điện thoại hối thúc ông Chủ tịch Nguyễn Xuân Vinh phải có một cơ quan ngôn luận để chống lại sự tuyên truyền của Việt Cộng, nhưng ông không làm. Tại sao? Nên nhớ ông Nguyễn Xuân Vinh từng làm việc ở Nha Tâm Lý Chiến dưới quyền Trung tá Nguyễn văn Châu, chắc chắn ông phải biết tờ báo là lợi khí để chống lại luận điệu tuyên truyền của địch. Hãy hỏi tại sao ông không làm? Có phải tại vì băng đảng Việt Tân không cho ông làm? Bởi vì một khi Tập thể Chiến sĩ chính thức lên tiếng phản bác lời tuyên bố của bà Luật sư Trần Kiều Ngọc “Em không chống Cộng, em chỉ chống Cái Ác” hay phản bác ông Tổng Giám đốc Trúc Hồ tuyên bố: “Đòi lật đổ chế độ Việt Cộng là sai! Chỉ xin nhân quyền thôi” thì kế hoạch thi hành Nghị Quyết 36 của Việt Cộng sẽ coi như mất hiệu lực?

Với tư cách là người trải nghiệm chiến lược Việt Cộng, tôi viết một bức thư tâm tình cho Luật sư Trần Kiều Ngọc, liền bị ngay mấy tên “Dư luận viên” của Việt Tân nhào ra mạt sát tôi thậm tệ. Đó là chiến thuật bôi nhọ của Việt Cộng đã dùng trước năm 1975 để cho không còn ai có uy tín với quần chúng. Ngày nay Việt Tân rập khuôn sử dụng chiến thuật bôi nhọ ấy rất hiệu quả để làm im tiếng những người Chống Cộng, nhưng chết nhát! Đáng lý ra các vị đang lãnh đạo Đại Việt, Quốc Dân Đảng thấy Tập thể Chiến sĩ VNCH nằm yên trước hiện tượng Trần Kiều Ngọc, Trúc Hồ, là phải hành động để chống lại Nghị Quyết 36 của Việt Cộng thì mới không làm buồn lòng Cụ Trương Tử Anh, Cụ Nguyễn Thái Học nơi suối vàng.

Tôi bị mất nước, nên chẳng còn gì để mất. Mặc cho bọn đầu đường xó chợ, bọn du thủ du thực mạ lỵ. Tôi tự biết mình là ai, nên vẫn lên tiếng một cách nghiêm chỉnh, lịch sự để ít nhất tôi không hổ thẹn làm một người tha phương cầu thực, giá áo túi cơm vì quay lưng lại trước nỗi thống khổ của đồng bào mình trong nước đang bị Việt Cộng biến thành súc vật. Nếu ai còn lương tri, thì còn lên tiếng để đừng cho bọn giả hình, bọn làm bạc giả và bọn xài bạc giả có thể cấu kết nhau làm ô nhục giống nòi. Tôi nghĩ đến việc Dân biểu Hồ Hữu Tường đòi ra Hà Nội làm lễ điếu tang cho Hồ Chí Minh mà không một Nghị sĩ nào, Dân biểu nào, nhà lãnh đạo Chính trị nào, nhà lãnh đạo Tôn giáo nào hay ông Tướng nào, ông Trí thức nào lên tiếng, thì cũng giống Tiến sĩ Trần Quang Thuận – phát ngôn viên chính thức của Trí Quang – đã được tiễn đưa về nơi an nghỉ cuối cùng một cách long trọng mà lại có một số ông Dân Biểu, Nghị sĩ đăng báo phân ưu vậy. Cái câu “nghĩa tử là nghĩa tận” đang là cái đạo lý của Việt Nam nhằm biện minh cho Trí Quang khi chết, vẫn được nhiều phụ nữ Huế xếp hàng hai bên đường lăn lộn khóc than cũng là bình thường thôi! Và Tiến sĩ Cao Huy Thuần, Thái Kim Lan vô tư phong Bồ Tát cho Trí Quang một cách thoải mái.

Theo nhận định của tôi, các đoàn thể Chống Cộng chỉ đặt nặng phần hình thức, mà không nghĩ đến Việt Cộng sử dụng Nghị Quyết 36 là có mục đích tiêu diệt nòi giống Lạc Hồng. Bởi vì hễ ai cất lên tiếng nói công chính, đàng hoàng, tử tế liền bị một tập đoàn đầu trâu mặt ngựa nhào ra chửi bới ngay. Từ đó, mới nảy sinh ra một nền “văn chương phải đạo” để được yên thân của các ông nghệ sĩ làm văn hóa!

Tôi bảo đảm rằng không một tổ chức nào, không một đoàn thể nào trong Cộng Đồng có bản lĩnh để chống lại thủ đoạn của Việt Cộng, vì quá thiếu vắng người can đảm chống lại sự bôi bẩn của phường vô lại. Nếu tình hình này kéo dài, chắc chắn nòi giống Việt Nam sẽ tiêu, vì Văn Hóa rồi đây sẽ không còn! Nếu tôi nói sai, xin quý vị hãy công khai lên tiếng. Một dân tộc không còn Văn Hóa thì dân tộc đó nhất định sẽ biến mất trên hành tinh này.

Tôi xin nói cho các nhà Chống Cộng hiểu rằng cái việc “đóng băng” Tập thể Chiến sĩ là ý đồ của Việt Cộng để thi hành Nghị Quyết 36 mà tôi đã cảnh báo từ lâu, nhưng chẳng ai thèm lưu tâm. Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh – Chủ tịch Tập thể Chiến sĩ – chỉ giỏi môn toán, chứ không biết gì về thủ đoạn Việt Cộng. Ông đã bị bà Phiến Đan dẫn dắt mà không hay biết đó thôi! Mỹ nhân kế đã được bọn Tàu sử dụng cả hàng chục thế kỷ trước, đến nay vẫn còn hiệu lực!

Luật sư Nguyễn Hữu Thọ trong giờ lâm chung mới than: “Bọn Việt Cộng đểu thật”! Giống như Phạm Xuân Ẩn lúc gần chết mới trối trăn với vợ con “Đừng chôn Ba gần mả mấy thằng Việt Cộng”!

Bằng Phong Đặng văn Âu, ngày 16 tháng 7 năm 2022.

10200 Bolsa Avenue, Westminster, CA.92683.

Telephone: 714 – 276 – 5600.

Email Address: bangphongdva033@gmail.com