Search This Blog

Sunday, November 28, 2021

DÂN VIỆT NGU SI VÀ HÈN HẠ

 

DÂN VIỆT NGU SI VÀ HÈN HẠ

Bằng Phong Đặng văn Âu

Không! Không phải tôi nói câu “Dân Việt Ngu Si và Hèn Hạ”. Tôi được người thầy giáo dạy Văn bảo: “Em hãy bình giải bốn câu mở đầu trong bài thơ của cô giáo Trần thị Lam nói về đặc tính người Việt”. Vâng lời thầy, tôi xin đem những sự kiện lịch sử để bình giải:

Đất nước mình ngộ quá phải không anh?
Bốn ngàn tuổi mà dân không chịu lớn!
Bốn ngàn tuổi mà vẫn còn bú mớm
Trước những bất công vẫn không biết kêu đòi…”

Thông thường, một đứa trẻ từ 18 đến 21 tuổi là đã trưởng thành để tự lập, không còn ăn bám vào cha mẹ. “Bốn ngàn tuổi mà không chịu lớn” là một quái thai, còn cứ nằm ngữa ôm bình sữa để bú thì càng quái đản hơn. Hãy tạm xét cái ngu từ thời vua Tự Đức đến năm 2021. Ông Nguyễn Trường Tộ được vị Cố Đạo đưa đi du học nước ngoài, lúc về nước cặm cụi viết bản Điều Trần dâng lên vua nhằm cải cách đường lối cai trị, từ Ngoại giao, Quốc phòng đến Kinh tế để bắt kịp nền văn minh thế giới. Vua quan đọc xong, liền phê bốn chữ “Yêu ngôn hoặc chúng” (Lời ma mị mê hoặc lòng người). Tôi hỏi thầy dạy môn sử tại sao các quan không đề nghị vua ra lệnh ông Nguyễn Trường Tộ dẫn một phái đoàn ra ngoại quốc để tìm hiểu thực tế? Thầy đáp: “Có lẽ các quan sợ canh tân đất nước, thì các quan mất chỗ đứng trong triều đình”. Phải chi vua Tự Đức sáng suốt như Minh Trị Thiên Hoàng của nước Nhật, thì dân mình đâu có bị Thực dân Pháp đô hộ ngót 100 trăm? Nếu tôi nói vua Tự Đức ngu, chắc chắn tôi sẽ bị kết tội hỗn hào với tiền nhân? Nhưng biết dùng chữ gì khác hơn để mô tả sự tối dạ của vua quan lúc bấy giờ?

Nhiều độc giả ở Hải ngoại tỏ ra hết sức thích bài thơ của cô giáo Trần thị Lam, nhưng đọc chỉ để mà đọc, giống như đọc một bài thơ tiêu khiển, chứ ngu vẫn tiếp tục ngu. Không những chê dân tộc mình ngu, cô giáo Lam còn chê dân mình hèn nữa cơ! Đấy là câu thơ “Trước những bất công vẫn không biết kêu đòi”. Cô giáo Lam không cần sự nghiệp văn chương đồ sộ. Chỉ cần làm một bài thơ, cô cũng đủ đi vào văn học sử bằng cửa chính. Giống như nhà thơ tí hon Minou Drouet viết: “Khi cơn gió mua Thu thổi nhẹ qua, hoa Mimosa rung chuông”. Thấy cánh hoa Mimosa có hình dáng như một cái chuông lung lay mà cô bé đã sáng tác nên câu thơ đó, quả là thiên tài!

Khi xưa, Bà Trưng Trắc là phận nhi nữ, nhưng giận Tô Định đã giết chồng mình, bèn rủ em Trưng Nhị cùng chiêu binh mãi mã để trả thù cho chồng, đền nợ cho nước. Vì thế, đời sau mới có câu: “Bà Trưng quê ở Châu Phong, Giận người tham bạo, thù chồng chẳng quên”. Hoặc Tướng quân Trần Bình Trọng bị quân địch bắt, dụ dỗ phong chức, nhưng Ngài đã giận dữ quắc mắt, thét vào mặt kẻ thù: “Ta thà làm quỷ nước Nam, còn hơn làm vương Đất Bắc”. Sự giận dữ,  sự khí khái đó làm cho hậu thế noi gương để trưởng thành. Cái giận của hai vị anh hùng nêu trên là cái giận Chính Khí. Còn thời nay, chúng ta chỉ thấy phần lớn là giận Nộ Khí!

Cái giận Chính khí là cái giận của bậc chính nhân, quân tử. Còn cái giận Nộ Khí là cái giận của đứa phàm phu tục tử, tiểu nhân giống như chị đàn bà bị mất gà, chửi từ làng trên đến xóm dưới:

“Cha tiên sư cao tằng, tổ khảo, thúc bá, đệ huynh, cô dì, tỉ muội thằng cha mày đã bắt con gà nhà tao! Con gà ở nhà tao là con gà, con qué. Nó về nhà mày là con cú, con cáo. Nó mổ gan, lòi ruột những đứa ăn miếng thịt gà nhà tao. Nó là thần nanh, đỏ mỏ rút gan, rút ruột nhà mày ra. Mày không thả con gà nhà bà ra, bà đóng ghế ba tháng mười ngày, buổi sáng bà chửi, buổi tối bà chửi, buổi trưa bà hú, bà nguyền, bà rủa cho cây vàng lá, cho quả chột thui, cho thần Trùng đến rút từng khúc ruột của cha ông, vợ con nhà mày ra! Tao hú ba hồn, bảy vía thằng đàn ông, ba hồn chín vía con đàn bà đã bắt con gà nhà tao. Tao gọi ông cầm cờ xanh đứng đầu ngõ, ông cầm cờ đỏ đứng sau nhà, ông cầm cờ vàng bên hữu, ông cầm cờ trắng bên tả yểm cho nhà mày đẻ con ra thì ngược, sinh cháu ra thì ngang vì đã dám ăn con gà nhà tao!...”.

Từ khi chủ nghĩa cộng sản xuất hiện trên đất nước ta, nền “văn hóa chửi” khá thịnh hành, vì Hồ Chí Minh gửi cán bộ sang Tàu học cách chửi để về đấu tố cha mẹ trong Cải Cách Ruộng Đất. Nhà giáo kiêm nhà văn Nguyễn công Hoan ở Miền Bắc làm thơ chửi nhà báo lão thành Phan Khôi bằng một bài thơ rất hỗn hào và rất tục, có câu: “Văn chương đù mẹ thằng cha bạc”. Dưới thời đại Hồ Chí Minh, xã hội Việt Nam mới có tiệm Phở Chửi nằm cạnh lăng Ba Đình. Noi gương nền “văn hóa chửi” của Việt Cộng, Việt Nam Cộng Hòa cũng có những đứa đầu đường xó chợ, du thủ du thực trà trộn vào xã hội, sống bằng nghề chửi mướn rất bẩn thỉu, rất vô giáo dục. Chúng chửi cả Phật, cả Chúa, chửi bất cứ ai đụng vào nồi cơm của chúng! Đến vị Tổng thống yêu nước, đạo đức như ông Ngô Đình Diệm đến nay vẫn còn bị chúng chửi. Kinh thật!

Hôm qua, một người đàn anh rất nổi tiếng, mà nêu danh tính anh ra, ai nấy đều ngưỡng mộ cái nhân cách lớn của anh, gọi điện thoại cho tôi và dạy bảo tôi sau khi đọc bài “Cái Thời Đại Chó Đẻ” mới được đưa lên diễn đàn: “Anh đọc hầu hết những bài viết của em, không những đọc một lần, mà rất nhiều lần. Anh công nhận em có trí nhớ rất tốt, lý luận đâu ra đó, không ai có thể bắt bẻ được. Nhưng anh khuyên em nên hành văn mềm mại, thì mới có sức thuyết phục độc giả để người ta theo mình. Như vừa rồi em tiết lộ cô Nga trong bài “Hồi Âm Dòng Đời” chính là em. Nói thực, trước đây anh đã đọc bài “Hồi Âm Dòng Đời” đến hai ba lần, vì thấy thương cô Nga ấy quá! Nay mới biết cô Nga ấy chính là em, thì cậu em anh cũng biết viết văn đấy chứ! Vậy tại sao em không viết những bài bằng giọng văn mềm mại dễ thương giống như bài “Hồi Âm Dòng Đời?” thì có phải đạt hơn không?

Tôi đáp: “Thưa anh, em không có chủ đích thuyết phục ai đi theo mình. Em không hiệu triệu Quốc dân. Em chỉ muốn lay thiên hạ dậy, đừng mê ngủ nữa và cũng đừng chạy đua theo sự phù phiếm của các trưởng giả học làm sang! Đồng bào ta bên kia bờ Đại dương bị Việt Cộng đối xử như con chó, mà ở bên này mình nhởn nhơ sao đành? Ông nhà báo Sức Mấy Đinh Từ Thức châm biếm các cựu Quân nhân Quân lực Việt Nam chỉ biết mặc quân phục, lo chào cờ, hát Quốc ca, kéo cờ lên, hạ cờ xuống, phủ cờ, xếp cờ, mà anh em Quân nhân không thấy xấu hổ, thì em phải lên tiếng nhắc nhở họ thôi! Đối với cộng sản, chỉ có các nhà trí thức mới dùng lời nho nhã. Còn em là lính mà “cổ cồn cà vạt” hô xung phong thì người ta sẽ cười vào mặt ngay. Không ai dùng dao bổ cau để giết trâu, anh ạ!”

Tôi xin thuật mẩu chuyện dưới đây để độc giả hiểu tính khí của người bình giải bài thơ của cô giáo Trần thị Lam.

Năm 1988, Đại sứ Bùi Diễm đã thuyết phục các anh Đặng văn Sung, Nguyễn Tôn Hoàn, Hà Thúc Ký, Nguyễn Ngọc Huy, Đặng văn Đệ, Đào Tiến, Nguyễn văn Canh tổ chức cuộc họp mặt Thống Nhất Đại Việt. Ba thành viên trẻ tuổi được tham dự, gồm có Lê Tấn Trạng, Nguyễn văn Ánh và tôi. Cuộc họp diễn ra ở nhà anh Nguyễn Quan Vĩnh – một người bạn cùng khóa phi công với tôi, cũng là đảng viên Đại Việt – hiện sống tại San Jose, California. Cụ Cung Đình Quỳ, 92 tuổi, Cựu Bộ trưởng Canh Nông trong Nội các Trần Trọng Kim, tuy không giữ chức vụ quan trọng nào trong Đảng, nhưng vì cao niên nhất, nên được các anh bầu làm Chủ tọa phiên họp. Cụ Quỳ còn khỏe mạnh, tinh thần minh mẫn. Sau phần nghi thức khai mạc trang nghiêm, cảm động, mọi người ngồi vào cái bàn dài hình chữ nhật khá lớn. Đợi mọi người an vị, Cụ Quỳ đứng phía đầu bàn, bắt đầu dõng dạc phát biểu. Không ngờ một Cụ già gần 100 tuổi, nhưng đôi mắt vẫn còn sáng quắc và giọng nói thật hùng hồn. Với tư cách là bậc đàn anh, Cụ khiển trách các anh Đặng văn Sung, Nguyễn Tôn Hoàn, Hà Thúc Ký, Bùi Diễm, Nguyễn Ngọc Huy … đã không đoàn kết nhau, khiến cho đất nước bị rơi vào tay kẻ thù. Các anh lớn đều khóc vì cảm thấy có tội với lịch sử. Cuối cùng, Cụ Quỳ kết luận: “Kể từ nay các anh hãy đoàn kết một lòng, nắm tay nhau phất ngọn cờ Đại Việt giải phóng đồng bào sớm thoát khỏi vòng nô lệ cộng sản”. Các anh lớn quay sang thân ái bắt tay nhau và lần lượt bày tỏ sự hối hận. Cử chỉ bắt tay thân ái đó và những lời tự thú của các anh, tôi tin các anh thành thật cam kết giữ lời thề giải phóng quê hương.

Đến phiên tôi được phát biểu: “Thưa các đồng chí niên trưởng, chúng em là kẻ hậu sinh, được các anh lớn cho phép ngồi vào bàn tham dự buổi quyết định lịch sử là một vinh dự rất lớn. Vì lòng yêu nước, bọn trẻ chúng em đã nối bước các anh để thể hiện lý tưởng Dân Tộc Sinh Tồn do đảng trưởng Trương Tử Anh khởi xướng. Là một trong những đứa em út, gốc quân nhân, tính tình bộc trực thẳng thắn, xin quý anh lấy lượng khoan hồng tha thứ cho đứa em được phép nói những cảm nghĩ hết sức chân thành. Các anh xuất thân con nhà gia thế, học trường do Pháp đào tạo, nhưng các anh đã dấn thân làm cách mạng, đi giữa hai lằn đạn của Thực dân và của Cộng sản. Chúng em ngưỡng mộ các anh vô cùng. Chính vì yêu lý tưởng “Dân Tộc Sinh Tồn” do đảng trưởng Trương Tử Anh đề xướng, bọn trẻ chúng em tình nguyện tuyên thệ vào đảng để nối gót các anh.

Vừa rồi, những lời khiển trách đanh thép của Cụ Cung Đình Quỳ làm cho em có cảm tưởng đấy là lời của đảng trưởng Trương Tử Anh vọng xuống từ cõi trên. Các anh đã khóc, đã nắm tay nhau thân ái khiến trong lòng em trỗi lên niềm hy vọng. Em hoàn toàn đồng ý với những lời đồng chí Niên trưởng Cung Đình Quỳ phát biểu, duy chỉ có một điều là em không đồng ý”. Nói tới đó, tôi ngừng. Mọi người trong bàn họp hướng về phía tôi để chờ nghe điều gì mà đứa em dám không đồng ý. Tôi tiếp tục: “Điều em không đồng ý là Cụ Quỳ yêu cầu các anh phất ngọn cờ Đại Việt. Tại sao không là ngọn cờ Dân Tộc? Tại sao chúng ta không thoát ra khỏi cái tinh thần cục bộ, để mở vòng tay kết hợp với các đoàn thể khác? Nhân tiện được dịp gặp tất cả các anh, cho phép em được hỏi anh Nguyễn Tôn Hoàn và anh Hà Thúc Ký, có phải hai anh đã đứng ra nhận lời tuyên thệ của Đại tá Nguyễn văn Thiệu sau cuộc đảo chánh năm 1963 tại Bộ Tổng Tham Mưu?” Anh Hoàn gật đầu xác nhận. Tôi tiếp tục: “Theo điều lệ đảng, một khi đảng viên từ bỏ đảng, sang sinh hoạt đảng khác, thì bị đảng khai trừ. Tại sao ông Nguyễn văn Thiệu lập ra đảng Dân Chủ mà các anh không có một biện pháp nào đối với ông Nguyễn văn Thiệu vậy?  Anh Nguyễn Ngọc Huy lập ra đảng Tân Đại Việt, có đa số đoàn viên là người Miền Nam. Anh Hà Thúc Ký lập ra Đại Việt Cách Mạng thì đa số đoàn viên là người Miền Trung, Miền Bắc.  Tại sao các anh xử sự giống như Cộng sản có Đệ Tam và Đệ Tứ vậy? Hai anh chỉ nghĩ đến cá nhân hai anh, mà quên nghĩ đến đàn em. Trước tình trạng chia rẽ của hai anh, chúng em giống như những đứa con trong một gia đình có cha mẹ ly dị nhau. Theo cha thì sợ mẹ buồn; theo mẹ thì sợ cha buồn. Có lần em nghe hai sĩ quan Không Quân bên phía anh Huy nói rằng hãy coi chừng thằng Âu, nó là người của Hà Thúc Ký. Em đã gọi họ lại để giáo hóa: Hai cậu là đàn em của tôi trong Không Quân, tại sao dám gọi tôi là thằng? Tại sao hai cậu xem tôi như kẻ thù vậy? Hai cậu muốn là người của anh Huy, thì mặc kệ các cậu. Còn tôi, tôi là người cùng chí hướng với anh Hà Thúc Ký, chứ đâu phải là đàn em của ai? Hãy bỏ cái tư tưởng “người của” đi nghe chưa? Tham gia vào đảng là để góp sức nhau cứu nước, đâu phải là một phường xôi thịt, mà phải làm đàn em để hưởng lợi?

Thưa các anh,

Theo em, thứ nhất, các anh chống Tổng thống Ngô Đình Diệm là sai. Các anh không phải đi giữa hai lằn đạn giữa Pháp và Việt Cộng như thời kỳ trước năm 1954, tại sao các anh không hợp tác với Tổng thống Ngô đình Diệm, cùng nhau tiêu diệt cộng sản để trả thù cho đảng trưởng Trương Tử Anh bị Việt Cộng thủ tiêu? Thứ hai, các anh im lặng việc ông Thiệu phản đảng đã đành, tại sao các anh không dùng thế lực đảng để ngăn chặn tình trạng mua quan bán chức, tham nhũng của chính quyền ông Thiệu? Thứ ba, tại sao các anh im lặng trước việc anh em nhà Hoàng Cơ Minh lợi dụng niềm tin phục quốc của đồng bào để khủng bố lương dân?

Theo em, các anh đã tự làm mất tư thế lãnh đạo quần chúng vì những sự im lặng đó. Hôm nay chủ đích cuộc họp Thống nhất Đại Việt là để giành lại tư thế lãnh đạo quần chúng hay chỉ làm cái công việc kết hợp có tính cách hình thức, nặng phần trình diễn, để chứng tỏ với quần chúng đã có sự đoàn kết giữa anh Ký và anh Huy? Xin các anh vui lòng cho chúng em biết”.

Những vấn đề tôi đặt ra trong Hội nghị làm cho không khí buổi họp bị chìm vào trạng thái tê liệt. Không anh nào trả lời những vấn đề do tôi đặt ra. Vừa lúc đó, anh bạn chủ nhà bước vào, nói: “Thưa quý anh, bây giờ là 12 giờ trưa, xin quý anh dừng cuộc họp và mời quý anh dùng bữa trưa một chốc”. Mọi người thở phào, đứng lên, bước ra sân. Thức ăn, thức uống đã được dọn sẵn trên hai cái bàn đặt giữa sân, mọi người dùng bữa theo kiểu “self service”. Anh tôi, bác sĩ Đặng văn Sung, vẫy tay gọi tôi lại gần, nhỏ nhẹ nói: “Những điều chú mày trình bày vừa rồi, anh không thấy chú nói điều gì sai, nhưng chú mày vẫn quen thói nhà binh, chú mày làm mất lòng anh Huy, anh Ký lắm đó.” Tôi lễ phép đáp: “Thưa anh, đáng lý ra cuộc họp Thống Nhất Đại Việt phải diễn ra từ năm 1963, sau khi đám Tướng lãnh lật đổ chế độ. Hôm nay đã là năm 1988 mới họp là quá trễ. Cuộc họp hôm nay là để mổ xẻ vấn đề vì sao Đảng Đại Việt từng có cơ hội cầm quyền, đã không làm nổi sứ mệnh bảo vệ Đất Nước. Em thiết nghĩ rằng phàm mổ xẻ, ắt phải đau đớn. Nếu không chịu đựng nổi sự đau đớn thì làm sao cứu nước? Em rất kính trọng các anh, nhưng em đã thưa trước là cho em được phép trình bày cảm nghĩ chân thực của em. Em cũng có khả năng làm đẹp lòng người các anh lớn, nhưng bốc thơm nhau trong hoàn cảnh này thì lợi ích gì?”.

Vốn kính trọng anh mình (hơn tôi 24 tuổi) như một người cha, nhưng trước vấn đề Đất Nước giống như đứng trước bàn thờ Tổ Quốc, tiền bối hay hậu bối đều có bổn phận và trách nhiệm như nhau. Vì quan niệm như thế, tôi không ngần ngại nói lên suy nghĩ của mình. Đây là lần thứ hai tôi bị anh tôi khiển trách. Vào cuối năm 1974, Chủ nhiệm Đặng văn Sung tổ chức buổi tiếp tân tại Tòa soạn Nhật báo Chính Luận. Tôi xin anh tôi cho phép tham dự, mặc dầu tôi chẳng phải là nhà báo, mà chỉ muốn biết các chính khách nghĩ gì trong tình hình dầu sôi lửa bỏng lúc bấy giờ. Lần đầu tiên, tôi được giáp mặt Luật sư Trần văn Tuyên. Tôi đến gần ông, tự giới thiệu và lễ phép mở lời: “Thưa Luật sư, em là quân nhân, ít có hiểu biết vấn đề chính trị. Em rất ngưỡng mộ tài hùng biện của Luật sư. Xin phép Luật sư cho em hỏi một câu được không ạ?” Luật sư Tuyên nhoẻn nụ cười tươi, lộ vẻ bậc thầy: “Được! Anh cứ hỏi”. Tôi nói: “Luật sư là nhà chính trị già dặn, có hiểu biết uyên bác, tại sao Luật sư cổ súy thành phần thứ ba? Trong khi Luật sư thừa biết đối với cộng sản ngay cả thành phần thứ hai, chúng cũng không chấp nhận. Giữa Đệ Tam và Đệ Tứ cùng theo chủ nghĩa Karl Marx, mà chúng giết nhau như ngóe. Trotsky đã trốn chạy sang Argentine, thay hình đổi dạng mà gián điệp của Staline theo tận nơi, lấy búa chẻ đôi đầu. Làm sao Việt Nam Cộng Hòa được bọn Việt Cộng khát máu buông tha?” Qua một hồi trao đổi, nhận thấy lập luận của Luật sư Tuyên trả lời câu hỏi của tôi có tính cách “tình tự dân tộc”, hơn là lý lẽ của người đầy kinh nghiệm chống cộng sản khát máu, không đủ sức thuyết phục, tôi hơi lớn tiếng. Anh tôi – bác sĩ Đặng văn Sung – không muốn em mình vô lễ với Luật sư, tiến lại gần và kéo tôi tới bàn rượu lấy rượu uống. “Chú mày nóng nảy quá! Muốn làm chính trị thì phải điềm đạm, khôn ngoan”. Tôi đáp: “Thưa anh, em không làm chính trị! Em muốn các anh phải làm cuộc cách mạng để em theo, để cứu nước!”.

Trở lại bàn họp, tôi ngồi yên lặng, không có ý kiến gì khác để đóng góp. Tiến sĩ Luật khoa Nguyễn văn Canh được các anh Hoàn, anh Ký, anh Huy giao trách nhiệm soạn thảo thể thức và đường lối kết hợp hai đảng. Sau cuộc họp ngày đó, tôi “bị” các anh cho ra rìa trong các cuộc họp sau, vì suy nghĩ của tôi không giống ai. Tới khi đọc thấy tin trên báo, tôi mới biết hai anh Nguyễn Tôn Hoàn và Hà Thúc Ký đều giữ chức “Đồng Chủ tịch”. Thiếu tướng Lê Quang Lưỡng, Tư lệnh Sư đoàn Nhảy Dù, gọi điện thoại cho tôi bằng giọng chán nản: “Buồn quá Âu ơi! Tại sao hai anh Hoàn, anh Ký không nhường nhịn nhau để lo việc lớn, mà phải là Đồng Chủ tịch? Có lẽ em với anh nên làm đơn ra khỏi đảng!”. Tôi đáp: “Nếu muốn ra khỏi đảng, thì chỉ cần nghỉ sinh hoạt là đủ. Đâu còn lãnh tụ nào anh em mình cảm phục để nạp đơn?” Chỉ một thời gian ngắn kết hợp, hai bên “Đồng Chủ tịch” ra tuyên cáo khai trừ lẫn nhau. Thật đáng xấu hổ!  

Các anh lớn đến nay đều đã qua đời. Chỉ còn Tiến sĩ Nguyễn văn Canh, anh Lê Tấn Trạng, anh Nguyễn văn Ánh và tôi sống sót, chắc chắn họ vẫn còn nhớ tôi đã phát biểu những gì trong cuộc họp. Hy vọng anh chủ nhà Nguyễn Quan Vĩnh còn giữ cuộn băng ghi âm ngày hôm đó.

Năm 1964, trong buổi thuyết trình cuộc hành quân Cầu Không Vận, dù chỉ là một Trung Úy, tôi đã đứng lên đề nghị cấp chỉ huy đổi tên chiến dịch “Kỳ-Duyên-Mai” (tên của vị Tư lệnh, con gái và phu nhân) bằng phương danh của một vị anh hùng trong lịch sử, vì không muốn địch quân lợi dụng để tuyên truyền. Hai nhân vật có mặt trong buổi thuyết trình vào năm đó là Thiếu tá Nguyễn Uông ở Paris, Thiếu tá Nguyễn Mộng Khôi ở Orange County hãy còn sống để chứng thực những gì tôi kể. Anh em quân nhân chúng ta hãnh diện là Người Lính Việt Nam Cộng Hòa, chứ không là lính của Thiệu-Kỳ như bọn Việt Cộng gọi xách mé. Chỉ có những đứa ngu vênh váo tự hào là “Bộ Đội Cụ Hồ”, không biết xấu hổ mới hãnh diện.

Thuật lại tình tiết cuộc họp Kết Hợp Đại Việt năm 1988 và mẩu chuyện trong phòng họp Hành quân Cầu Không Vận năm 1964, không phải tôi có ý tự đề cao cá nhân. Tôi chỉ muốn độc giả hiểu bản chất của tôi là thế, ăn ngay nói thẳng, vì nghĩ rằng sự góp ý của mình là chính đáng để bảo vệ lý tưởng mà mình theo đuổi thì có gì sai mà phải giả bộ khiêm tốn? Vài anh em cho rằng tôi là thằng dại! Có thể đúng, vì tôi không biết mưu cầu lợi lộc cho bản thân.

Chủ tịch Hà Thúc Ký thương yêu tôi như một thằng em trung tín. Ông hỏi: “Cậu có muốn ra tranh cử Dân Biểu không? Anh sẽ đưa cậu ra”. Tôi đáp: “Anh nên dành cho những anh em đồng chí có công với đảng. Em thích nghề bay bổng hơn”. Một khi ông Chủ tịch ưu ái hỏi mình như thế, chắc chắn ông sẽ đưa mình ra tại địa phương nào mà đảng có thế lực quần chúng nhất. Xác suất trúng cử sẽ rất cao. Do sự từ chối của tôi, ông Chủ tịch cử bà Kiều Mộng Thu (vợ anh Sắc, gốc người Miền Nam) ra tranh cử ở Huế và đắc cử. Nghị sĩ Tôn Thất Uẩn ở Anh quốc và bà Hà Thúc Ký ở Mỹ,  đã nghe câu trả lời của tôi. Hai vị đang còn sống để xác minh chuyện này. Tiếc rằng quá yêu cái nghiệp bay bổng, tôi cứ bám lấy cái nghề. Phải chi nhận ra tranh cử Dân Biểu với quyền bất khả xâm phạm, tôi nghĩ mình cũng có thể làm diễn đàn Quốc Hội dậy sóng vì cái tính bạo phổi của mình.

Thú thực, trong thời gian chiến đấu dưới cờ, tôi rất thương xót những anh em đồng đội của mình vẫn vô tư chiến đấu hăng say, dũng cảm. Họ không biết lãnh đạo của họ bất xứng, ích kỷ, chỉ biết ấm thân. Chẳng phải cao ngạo, tôi khá coi thường những nhân vật tên tuổi thì lớn, mà tình yêu Đất Nước thì bé. Xin ghi ra đây một số “người và việc” để chứng minh tại sao trong trí tôi đã có cảm tưởng Miền Nam sẽ thua cuộc chiến đấu vừa qua. Mong rằng bạn đọc đừng chê trách tôi tại sao vạch áo cho người xem lưng. Việt Cộng biết rõ lưng chúng ta hơn chúng ta tưởng.

1/ Đại tướng Nguyễn Khánh kéo một số Tướng lãnh ra Vũng Tàu họp bàn, rồi thảo bản Hiến chương (báo chí gọi là Hiến chương Vũng Tàu). Sinh viên bị xách động, biểu tình phản đối dữ dội. Tướng Nguyễn Khánh leo lên xe tăng, vung nắm tay lên cao, hô lớn: “Đả đảo Nguyễn Khánh!” giống như một tên hề! Một lãnh tụ tồi như vậy, lính tráng còn tinh thần đâu nữa để chiến đấu? Thế mà anh em đổng đội tôi vẫn chiến đấu hăng say mới lạ!

2/ Vụ buôn lậu “Còi Hụ Long An” gây tin đồn ầm ĩ do bà Thiệu (phu nhân Tổng thống), bà Khiêm (phu nhân Thủ tướng) chủ mưu. Viên Trung úy Quân Cảnh chặn bắt đoàn xe bị đổi đi đơn vị khác, còn sống hay đã chết không ai biết tung tích. Tổng thống lẫn Thủ tướng chẳng thèm đưa nội vụ ra tòa để bạch hóa những lời đồn vô căn cứ. Lãnh đạo Đất Nước mà khuất tất như vậy, lý tưởng bảo vệ Miền Nam đâu còn nữa? Không một ông Tướng nào dám vào Dinh Độc Lập đặt vấn đề với Tổng thống, thì làm sao có “Cái Dũng” để chỉ huy ngoài mặt trận? Không có vị lãnh tụ chính trị nào đặt thẳng vấn đề với Chính quyền. Thượng Viện, Hạ Viện cũng không đòi phía Hành pháp ra điều trần. Dần dà vụ buôn lậu chìm xuồng, tinh thần quân sĩ xuống thấp. Anh Kolman, một viên chức cao cấp CIA, khuyên tôi nên thu xếp gia đình để chuồn, vì thế nào Mỹ cũng bỏ rơi Miền Nam. Tôi tự hỏi: “Chẳng lẽ đào ngũ sao? Chuồn, nhưng biết chuồn đi đâu?” (Anh Kolman, một người bị khuyết tật vì chứng “polio” từ nhỏ, nếu người nào hoạt động trong ngành tình báo với Mỹ đều biết anh).

3/ Giáo sư Vũ văn Mẫu có bằng Thạc sĩ Luật Quốc tế, được Tổng thống Ngô Đình Diệm bổ nhiệm làm Bộ trưởng Ngoại giao. Nhưng khi mấy tên Việt Cộng đội lốt Nhà Sư nổi lên chống Chính quyền dưới danh nghĩa tranh đấu đòi tự do tôn giáo, Vũ văn Mẫu cạo trọc đầu, từ chức để ủng hộ cuộc tranh đấu. Bọn Sư Việt Cộng không ngừng tranh đấu dù anh em ông Diệm đã chết, vẫn tiếp tục quấy rối cuộc trị an ở hậu phương để tiếp tay cho quân xâm lăng Bắc Việt. Vũ văn Mẫu vẫn cam tâm làm tay sai cho Trí Quang, nhưng không một nhà trí thức nào tầm cỡ như Giáo sư Vũ Quốc Thúc, Nguyễn Cao Hách có một tiếng nói để chống lại sự phản bội của Vũ văn Mẫu, vạch mặt Vũ văn Mâu là một trí thức cơ hội. Tại sao giới trí thức không thấy cuộc đấu tranh của Trí Quang sẽ làm Miền Nam sụp đổ, mà chỉ biết rên rỉ Pháp nạn? Đâu rồi những trí thức Phật giáo thấm nhuần ba chữ "Bi - Trí - Dũng?

4/ Giáo sư Hồ hữu Tường, Cố vấn chính trị cho lực lượng Bình Xuyên, chống Chính quyền Thủ tướng Ngô Đình Diệm, bị bắt và bị đày ra Côn Đảo. Lúc Đệ nhất Cộng Hòa bị lật đổ, Hồ hữu Tường được thả về Saigon, sau đó trở thành Dân biểu Quốc hội VNCH. Năm 1969, Hồ Chính Minh đền tội. Hồ Hữu Tường đề nghị Quốc Hội lập một phái đoàn ra Hà Nội để phúng điếu Hồ Chí Minh. Thế mà, không một ai nghe một ông Thượng Nghị sĩ hay một ông Dân biểu nào lên tiếng chống lại hành động ngu xuẩn của Dân biểu Hồ hữu Tường. Lập phái đoàn đi phúng điếu một tên sát nhân chủ trương xâm lăng Miền Nam, thì Chống Cộng để làm gì? Sau năm 1975, Dân biểu Hồ Hữu Tường đã chết trong nhà tù Việt Cộng!

Tôi nhớ Tướng Độc Nhãn Do Thái Moshe Dayan lúc sang Việt Nam, trả lời nhà báo phỏng vấn là Miền Nam muốn chiến thắng Việt Cộng thì phải thua Việt Cộng trước đi đã. Điều đó có nghĩa là chính trị gia, trí thức, Tướng lãnh Miền Nam phải nếm mùi cộng sản đã, thì mới lo đoàn kết với nhau diệt cộng sản. Tôi cho rằng Tướng Moshe Dayan xứng đáng là vị Tướng tài ba ngoài chiến trường, thông minh trong chính trường, vì chỉ ở Việt Nam trong mấy tuần lễ, nhưng nhận định của ông rất chính xác nội tình chính trị Miền Nam .

Năm 1954, gần một triệu dân Miền Bắc bồng bế nhau di cư vào Miền Nam vì không thể sống dưới chế độ cộng sản. Sự kiện đó không đủ để cho trí thức, các lãnh đạo chính trị, các nhà lãnh đạo tôn giáo các nhà lãnh đạo quân sự Miền Nam thấy viễn ảnh cực kỳ ghê gớm, nếu cuộc xâm lăng Miền Nam của Việt Cộng thành công. Năm 1959, cụ Hoàng văn Chí xuất bản cuốn “Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc” để cho họ thấy rõ Hồ Chí Minh đã chà đạp trí thức, văn nghệ sĩ như thế nào, nhưng cũng không thức tỉnh nổi trí thức, chính trị gia, quân nhân Miền Nam. Hỏi rằng một tầng lớp được coi là “élite” lãnh đạo Đất Nước là ngu hay sáng suốt? Ngoài cái ngu ra, còn có cả sự phản bội mới là ghê gớm.

Hồ Chí Minh thành công trong sứ mệnh đặt nước Việt Nam dưới ách đô hộ của Trung Cộng là nhờ trí thức Việt Nam ngu. Mao Trạch Đông coi trí thức như cục cứt. Hồ Chí Minh đào tận gốc trốc tận rễ là làm theo chỉ thị của Mao Trạch Đông, nhưng trí thức vẫn đâm đầu vào mà không gọi ngu thì gọi là gì? Chỉ vi trí thức ngu si, thì Hồ Chí Minh mới có thể thực hiện chiến lược địch vận, trí vận, binh vận được chứ! Đúng không? Trong mỗi bài diễn văn, Tổng thống Ngô Đình Diệm đều nhấn mạnh hiểm họa cộng sản, nhưng cái ngu của dân Việt Nam giống như bị hòn đá tảng đè quá nặng, không một ai có thể cục cựa được.

Cái chết của Chúa Jesus Christ trên cây Thánh giá không cứu rỗi được nhân loại. Cái chết của gia đình Tổng thống Ngô Đình Diệm cũng không thể làm cho dân Việt Nam sáng mắt. Có một thi sĩ người Nhật làm một bài thơ ngắn ngủi, nhưng ý tưởng rất thâm sâu:

“Trong công viên, có biển đề cấm không được hái hoa. Nhưng hoa vẫn rụng, bởi vì gió không biết đọc”. Tôi không phải là nhà thơ, nhưng xin bắt chước ý tưởng của thi sĩ người Nhật: “Tổ tiên nòi giống Việt lưu lại cho con cháu một kho tàng ca dao tục ngữ khôn ngoan. Nhưng dân Việt vẫn ngu, bởi vì trí thức Việt Nam không biết đọc để dạy dân”. Tổ tiên ta dạy “bần cùng sinh đạo tặc”. Chủ nghĩa cộng sản chủ trương bần cùng hóa nhân dân, vô sản chuyên chính mà thành công là vì dân ta ngu. Trong khi đó, nhà lãnh đạo Ngô Đình Diệm đã làm cho một vùng đất bị tàn phá sau chiến tranh, trở thành Hòn Ngọc Viễn Đông, mà bị một bầy phản bội với sự phụ họa của trí thức, Tướng lãnh để giết, thì xin hỏi là ngu hay khôn?

Một bọn người rừng rú khố rách áo ôm lên cầm quyền, xé nát đất nước phì nhiêu thành một bãi rác khổng lồ, người dân bị cả thế giới khinh bỉ, mà người thoát ra ngoài vòng kiềm tỏa của bầy thú hoang dã, vẫn không đoàn kết được với nhau để bảo vệ sự tồn tại nòi giống. Tôi xin hỏi có ai đủ tài ba, đủ uy tín để phá tan đám mây đen ngu dốt đang phủ kín dân tộc này?

Thưa Thầy giáo dạy Văn,

Thầy bảo em hãy bình giải bài thơ của cô giáo Trần thị Lam. Em đã cặm cụi viết bằng những dẫn chứng vài ba sự kiện lịch sử để chứng minh. Em không cố ý vạch áo cho người xem lưng. Cái dân tộc Việt Nam mình nó như thế nào, em chỉ viết ra như thế ấy! Giống dân Việt rất thông minh, nhưng sự thông minh không dùng vào việc gì được, vì tình trạng đố kỵ lẫn nhau, chẳng ai bảo được a, thì đoàn kết thế nào được? Theo sự xét đoán của em, dân tộc này rồi sẽ bị đồng hóa thành một giống người không còn những đặc tính bất khuất, hào hùng của Tổ Tiên, vì họ không còn có “Cái giận Chính Khí”, ắt không có lòng Tự Ái Dân Tộc, cam tâm chịu nhục, thì sự diệt chủng không thể tránh được! Nếu Thầy thấy bài bình giải là sai, là bi quan yếm thế, xin Thầy vui lòng chỉ giáo, người học trò này xin lĩnh hội. Con xin trân trọng cảm ơn Thầy.

Bằng Phong Đặng văn Âu,

Email Address: bangphongdva033@gmail.com

Telephone: 714 – 276 – 5600.

(Con sẽ viết bài thứ hai kỳ sau về chủ đề này).

 



Tuesday, November 23, 2021

ĐẶT VẤN ĐỀ VỚI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

 

ĐẶT VẤN ĐỀ VỚI

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM.

Bằng Phong Đặng văn Âu

Gửi ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam,

Gửi Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam,

Gửi Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam,

Trước ý đồ gian ác của Trung Cộng thôn tính nước Việt Nam và đồng hóa nòi giống Việt Nam, tôi – Bằng Phong Đặng văn Âu – nhân danh một người mang dòng máu Lạc Hồng, nghiêm khắc đặt vấn đề với ông Tổng Bí thư, với Bộ Chính trị và với Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.

Theo sự tiết lộ của Trung Cộng, Hồ Chí Minh là Thiếu tá Hồ Quang, một sĩ quan trong Đệ Bát Lộ Quân, được cải trang thành Hồ Chí Minh để sang lãnh đạo Việt Nam làm cuộc cách mạng vô sản, nhằm nhuộm đỏ toàn thế giới. Tôi tin tưởng sự tiết lộ của Trung Cộng là đúng Sự Thật.

Thứ nhất, Trung Cộng có thể tìm một người Tàu có gương mặt giống Nguyễn Tất Thành, rồi đặt bí danh Hồ Chí Minh, hoặc với kỹ thuật giải phẫu, bác sĩ Tàu có thể làm cho Hồ Quang có gương mặt giống Nguyễn Tất Thành. Nhưng chiều cao của Hồ Quang và chiều cao của Nguyễn Tất Thành thì không thể thay đổi được. Thực tế là Hồ Quang cao lớn hơn Hồ Chí Minh.

Thứ hai, nếu thực sự là người Việt Nam, Hồ Chí Minh không thể vô lễ với vị anh hùng dân tộc – Đức Thánh Trần Hưng Đạo – bằng lối xưng hô “bác bác, tôi tôi” như bạn bè đồng trang lứa, khi đề thơ tại Đền Kiếp Bạc. Lúc đọc Tuyên Ngôn Độc Lập vào năm 1945, Hồ Chí Minh chỉ mới 55 tuổi, dám xưng bác và gọi đồng bào ta là các cháu, mà trong đó có những cụ già ngót 100 tuổi là một sự hỗn láo không đúng với lễ nghi Việt Nam.

Thứ ba, nếu thực sự là người Việt Nam, Hồ Chí Minh không bao giờ dám bán nhà cách mạng Phan Bội Châu cho Thực dân Pháp.

Thứ tư, nếu thực sự là người Việt Nam, Hồ Chí Minh không bao giờ bí mật thủ tiêu những nhà lãnh đạo ái quốc chống Pháp như Trương Tử Anh, Lý Đông A, Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ.

Thứ năm, nếu thực sự là người Việt Nam, Hồ Chí Minh không bao giờ triệt tiêu nguyên khí Quốc gia bằng chủ trương đào tận gốc, trốc tận rễ thành phần trí thức để thi hành chính sách ngu dân.

Thứ sáu, nếu thực sự là người Việt Nam, Hồ Chí Minh không bao giờ dùng thí nghiệm của nhà sinh vật học Nga – Ivan Pavlov – trên loài chó để áp dụng vào nhân dân Việt Nam bằng biện pháp bỏ đói làm mất nhân phẩm.

Thứ bảy, nếu thực sự là người Việt Nam, Hồ Chí Minh không bao giờ đem dân tộc Việt Nam đánh Thực dân Pháp, Đế quốc Mỹ cho Liên Xô, cho Trung Cộng như Tổng Bí thư Lê Duẩn đã thú nhận. Hồ Chí Minh đẩy hàng triệu thanh niên Việt Nam của hai miền Nam Bắc vào lò lửa chiến tranh cho cuồng vọng của Trung Cộng là một tội ác không thể tha thứ.

Thứ tám, nếu thực sự là người Việt Nam, Hồ Chí Minh không bao giờ gửi cán bộ sang Trung Cộng học tập cách chửi cha mắng mẹ, anh em, họ hàng giết hại lẫn nhau, tịch thu toàn bộ tài sản để bần cùng hóa nhân dân trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất cực kỳ man rợ.

Thứ chín, nếu thực sự là người Việt Nam, Hồ Chí Minh không bao giờ chủ trương triệt hạ nền Văn Hóa do Tổ Tiên xây dựng suốt bốn ngàn năm để thay vào đó một chủ nghĩa phi nhân, căm thù giai cấp, phân hóa xã hội.

Thứ mười, nếu thật sự là người Việt Nam, Hồ Chí Minh không bao giờ ra lệnh cho Thủ tướng Phạm văn Đồng gửi thư cho Quốc Vụ viện Trung Cộng để dâng biển đảo cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam.

Về phương diện phương diện đạo đức:

1/ Hồ Chí Minh là một con người tồi bại, vì ra lệnh thuộc cấp mang thiếu nữ vị thành niên vào Dinh Chủ tịch để hành lạc.

2/ Hồ Chí Minh là một con người vô trách nhiệm, chăn gối với Nông thị Xuân, đẻ ra Nguyễn Tất Trung rồi giao con cho Vũ Kỳ nuôi và ra lệnh Bộ trưởng Nội vụ Trần Quốc Hoàn thủ tiêu vợ.

3/ Hồ Chí Minh là một con người phản phúc, được bà Cát Hanh Long Nguyễn thị Năm cống hiến tài sản để nuôi Đảng lúc nghèo đói, sa cơ. Nhưng sau đó, Hồ Chí Minh cùng Trường Chinh Đặng Xuân Khu thản nhiên ngồi chứng kiến cuộc đấu tố bà Nguyễn thị Năm cho đến chết.

4/ Hồ Chí Minh là một người cực kỳ hung ác, có máu lạnh đã thiết lập một bộ máy cai trị gồm những tên quỷ sứ không tim, không óc đánh đập, tra tấn, thủ tiêu những người yêu nước không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản.

5/ Chiêu bài Giải phóng Miền Nam, Thống nhất Đất nước là láo. Chưa bao giờ dân tộc Việt Nam phải bỏ nước ra đi bằng mọi phương tiện dù cái chết trước mắt.

Bộ máy cai trị của Đảng đã cưỡng bức nhân dân thành nô lệ và nhồi sọ vào đầu óc trẻ con tư tưởng vô luân thường, vô đạo lý để biến toàn xã hội thành một địa ngục trần gian. Chưa bao giờ có hiện tượng người con gái Việt Nam phải trần truồng để cho người ngoại quốc định giá mua về làm vợ hoặc làm công cụ cho khách làng chơi. Chưa bao giờ đông đảo thanh niên Việt Nam bị đẩy đi làm lao nô thế giới để Đảng lấy tiền cung phụng cho giới cầm quyền sống cuộc sống cực kỳ xa hoa, trụy lạc mà Đảng không can thiệp khi lao nô bị ức hiếp. Chưa bao giờ dân tộc Việt Nam bị cả thế giới khinh miệt như ngày hôm nay.

Đảng bắt buộc toàn dân Việt Nam phải học tập tư tưởng Hồ Chí Minh và noi gương đạo đức Hồ Chí Minh – một con người độc ác, vô đạo đức – là có mục đích tiêu diệt nòi giống Việt Nam theo mệnh lệnh của Trung Cộng.

Nhận định rằng Đảng Cộng sản Việt Nam là một đảng cướp có vũ khí, tự đặt ra luật pháp và ngồi trên luật pháp, không có lý do chính đáng để cai trị nhân dân Việt Nam gần một thế kỷ, tôi cực lực phản đối và yêu cầu:

1/ Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam là một đảng phản động, phản quốc, phản dân tộc, hãy trả lại quyền làm người cho Dân tộc Việt Nam.

2/ Thứ hai, hãy tổ chức bầu cử tự do dưới sự giám sát của Quốc tế để cho nhân dân Việt Nam được quyền tự quyết định vận mạng.

Không lý do gì Tổ Tiên dân tộc Việt Nam đã tốn biết bao xương máu để xây lên và gìn giữ một Non Sông gấm vóc, một Dân Tộc kiêu hùng mà bị một người Tàu lãnh đạo Chủ nghĩa Cộng Sản đã bị nhân loại lên án là một chủ nghĩa diệt chủng, lại được quyền ngang nhiên tiêu diệt Nòi Giống Việt Nam.  

Bằng Phong Đặng văn Âu.

Làm tại: 10200 Bolsa Avenue, Thành phố Westminster, California 92683, USA.

Telephone: 714 – 276 – 5600

Ngày 23 tháng 11 năm 2021

Friday, November 19, 2021

HỒI ÂM DÒNG ĐỜI

 

HỒI ÂM "DÒNG ĐỜI" NGA SÀI GÒN

 https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEip2EEgcMxHwUUSa9JoXytWN0Uhy6pQlGisNtSMgKyteu5EsDbFYdm_skLVI21qbE3MwQqCZg-PH_bCOx2RFk1cDBst8dz61qy89qDwqxI5t_mzrmHxoZ8naTOWn3c0YIubG7aDktHM4MsR/s640/tinh+chinh+chien.jpg



Hồi Âm "DÒNG ÐỜI..." Nga Sàigòn.

Truyện Tình Thời Chinh Chiến

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj4bTkSjmHJfAprPdyVlxFjomVFlBGYEu3vHhzVeRU2iqU7Zr0a5y2qqKal_yANgOIMKu8IdPc_vVGY_F0lGz_wrhgJxdssz-0EiYEvOK49YIWZI3pOHGIlQtlD2oyG-OevjgFVVEk_95G5/s640/valentine+9-1.jpg

 

Anh Duy thân mến,

 

Em ngồi viết lá thư này cho anh khi cơn mưa vừa mới tạnh. Cơn giông miền nhiệt đới ào ạt, kéo dài độ chừng hai tiếng đồng hồ, nhưng cũng đã làm cho cái nóng oi bức của Sàigòn dịu bớt. Mưa đã dứt, chỉ còn những giọt nước nhỏ thỉnh thoảng tí tách rơi trên miếng tôn mỏng hứng nước bên hiên nhà. Nghe tiếng giọt nước gõ đều đặn, rồi nghe tiếng nhịp tim mình đập, em bỗng thấy hình như mình mang một tâm trạng bồi hồi. Ðặt bút viết là thư này cho anh, lòng em cũng cảm thấy bồi hồi như thủa ấy cầm tay anh lần đầu, mà không ngờ cũng là lần chào ly biệt.... Không biết rồi lá thư này có thể đến tay anh? Nếu may mà thư đến, đọc xong anh sẽ nghĩ gì? Thôi em cũng liều... Cầm bằng như gió mang đi.

 

Tuần trước em đến thăm chị Hạnh, người bạn làm việc cùng cơ quan với em trước đây. Chị ấy xin phục viên sớm, vì đồng lương nhà nước trả không đủ sống. Chưa kể là đôi ba tháng nhà nước không có tiền phát cho nhân viên. Chị Hạnh bây giờ làm nghề buôn chui sách báo nước ngoài. Ở chỗ này thì em phải giải thích thì anh mới rõ tại sao ngày nay nước mình lại có cái nghề lạ như vậy. Từ ngày các nước xã hội chủ nghĩa anh em ngưng viện trợ, nhà nước cần ngoại tệ nên họ đã mở cửa, khuyến khích người Việt ở nước ngoài về thăm quê hương. Tuy có lệnh kiểm soát gắt gao ở các cửa khẩu hải quan những món hàng quốc cấm như sách báo tuyên truyền của phe tư bản, nhưng tệ nạn tham nhũng tràn lan không có cách gì ngăn cản nổi. Vì thế, du khách chỉ cần đút lót vài ba bao thuốc thơm, chiếc đồng hồ rẻ tiền..v.v... thì cái gì to như con voi qua cũng lọt. Người dân ở quê nhà bây giờ không ai thèm đọc báo nhà nước, ngày nào ngày ấy tin tức đều nhai đi nhai lại một luận điệu cũ rích. Người ta còn khôi hài nói rằng chỉ có tin tức khí tượng là không sặc mùi tuyên truyền, còn hầu hết đều... cuội! Vì thế dân chúng mới lén lút thuê hoặc mua lại báo chí bằng Việt ngữ hay bằng ngoại ngữ xuất bản tại nước ngoài.

 

Gặp em, chị ấy vội kéo vào buồng trong nói nhỏ:

- Này Nga, tôi có món quà này, chắc Nga sẽ thích vô cùng

Em chưa kịp hỏi chi ấy món quà gì, chị Hạnh đã dúi vào tay em một tờ báo. Chị nói:

- Dấu cho kỹ vào người đi! Về nhà, chờ đêm khuya thanh vắng rồi hãy đem ra đọc. Ðọc để xúc động vì "người ta" còn nhớ tới mình!

 

Nhìn trang bìa tờ báo có hình một nửa chiếc máy bay phản lực đậu trên phi đạo và tên tờ báo là Ngàn Sao, lại nghe chị Hạnh nói bóng gió xa xôi, em linh cảm một điều gì đó rất mơ hồ. Nửa năm trước, chú Lâm từ bên Mỹ đi công tác cho hãng về Việt Nam đến thăm em. Chú ấy nhắc đến anh, đến tình cảm anh vẫn âm thầm dành cho em. Giác quan thứ sáu xui em liên tưởng đến một điều gí đó (mơ hồ thôi) rằng anh, chàng Phi công Cộng Hòa lãng mạn, có thể đem chuyện tình hai đứa dệt thành văn? Cầm tờ báo trên tay, em run còn hơn bị B-52 trải thảm hay như hồi sơ tán phòng không ở Việt Bắc. Chị Hạnh trấn an:

 

- Làm gì mà run dữ vậy? Bề nào Nga cũng là cựu sĩ quan quân đội nhân dân, công an nào dám đụng đến?

 

Em run không phải là sợ công an khám xét thấy mình mang món hàng quốc cấm. Em run vì không hiểu điều dự đoán của mình có phải là sự thực. Em run vì liên tưởng đến người bạn năm xưa vẫn còn nhớ đến mình. Anh đừng cười em già rồi mà còn vớ vẩn.

 

Chị Hạnh là người bạn sát cánh với em vào thời kỳ chiến đấu dọc Trường Sơn. Chị ấy cũng là con nhà tiểu tư sản như mình, nên em thường nhỏ to tâm sự trong những lúc dừng quân. Em có kể cho chị ấy nghe về anh, người bạn học cùng trường thủa thiếu thời.

 

Về nhà, chờ đêm khuya thanh vắng, mọi người đều đã say giấc nồng, em len lén đem tờ báo ra chong đèn lên đọc. Em đọc từng trang, rồi em dừng lại ở bài viết mang tên tác giả Duy Lạc, "Chắc chắn là anh đây rồi?!" Em tự nhủ: Quả nhiên đúng như điều em dự đoán.

 

Thời gian trôi nhanh quá anh nhỉ? Thấm thoát đã bốn mươi năm rồi còn gì? Bao nhiêu tấn tuồng dâu bể diễn ra! Bao nhiêu nước chảy dưới cầu! Hai mái tóc xanh của đôi trẻ ngày nay đã bắt đầu điểm trắng.

 

Chiến tranh bùng nổ, anh từ Sàigòn về lánh nạn ở quê nhà. May mắn thay giặc chưa thể tràn về vùng đất của mình, nên chúng ta có một thời kỳ bình yên. Khí thế bừng bừng của phong trào giành độc lập xứ sở bốc cao khiến tất cả thanh niên hăm hở lên đường làm anh vệ quốc quân. Tuy bọn mình còn nhỏ mà trong trí óc non nớt cũng đã thấy lòng rộn ràng vui thích như đi trẩy hội ngày Xuân. Em còn nhớ đêm liên hoan, anh hát bài "Nhớ Chiến Khu". Lúc bấy giờ nghe giọng anh run run, em cứ tưởng anh vì cảm thương nỗi nhớ nhà của anh vệ quốc quân trong núi rừng thâm u; nào dè anh run ...vì ánh mắt ngưỡng mộ va say mê theo dõi của em. Thì ra nhãn lực của em cũng khá đấy anh Duy nhỉ?

 

Dạo ấy lần đầu tiên nghe anh trả bài thầy giáo, em mới để ý thấy cách phát âm của anh khác với những học trò con trai trong huyện. Chẳng hạn, "mờ mịt" thì anh phát âm thành "mờ mịch" hay "vui quá" thành "vui góa". Và còn nhiều chữ độc đáo nữa...

 

Mới đầu bọn học trò trong lớp, rồi về sau bọn học trò của cả trường thường nhại cách phát âm ấy để trêu ghẹo anh. Thoạt tiên em cũng cười hùa theo bọn chúng, nhưng thấy anh chẳng phản ứng gì, mà chỉ nhún vai cười khỉnh rất là... Sàigòn, tự nhiên em đâm ra thích cái giọng ấy mới kỳ chứ! Mỗi lần đến giờ học, em đều cầu mong thầy giáo gọi anh lên trả bài để em được nghe cái giọng ngồ ngộ ấy.

 

Anh còn nhớ lần đi cắm trại đầu tiên do nhà trường tổ chức trước vụ Hè 51 không? Lớp mình chia làm bốn toán mà anh thì ở toán A, còn em ở toán B. Khi đến nơi, ai nấy đều lo căng lều dựng trại của toán mình, trong lúc đó anh lại chạy sang loay hoay giúp em làm chuyện này chuyện kia. Cử chỉ lăng xăng của anh có vẻ vụng về, khiến cho em vừa buồn cười vừa cảm động. Vì thế, buổi tối họp lửa trại, em mới lén dúi vào tay anh củ khoai em vùi trong bếp lúc nấu cơm chiều. Em còn trêu:

 

- Trại sinh bên toán B ăn hết "thịch" (thịt) cá rồi, em chỉ còn củ khoai nóng này tặng anh dùng đỡ cho "dzui"!

 

Chẳng những anh không giận vì bị em nhái giọng, anh chìa tay ra cầm củ khoai một cách hồn nhiên, mà miệng còn ấp úng nói gì nghe không rõ, em bỗng cảm thấy thương anh chi lạ!

 

Dân trong làng kế cận khu cắm trại, tối đến xong việc đồng áng cũng ra tham dự trò chơi lửa trại của đám học sinh. Ánh lửa hồng chờn vờn nhảy múa ngọn thấp ngọn cao, nhịp nhàng lung linh với tiếng đàn guitar bập bùng của anh tạo nên cảnh tượng kỳ ảo rất liêu trai. Con Thủy, con gái ông Xã Tài; con Nhạn, con gái ông Lý Trân, ngồi bên em cứ huých cùi chỏ vào hông em từng chập, mỗi lần chúng nó trông thấy anh gật gà gật gù theo điệu nhạc trầm bổng.

 

Dường như lúc bấy giờ anh say sưa với âm thanh của từng nốt nhạc, không thèm biết gì đang xảy ra chung quanh. Khách quan nhận xét, cả huyện mình đâu có cậu học trò nào chơi đàn ngọt như anh? Chúng nó cũng khoái và để ý "người Sàigòn" có mái tóc chải bảy ba tango lắm đấy! Anh có biết rằng anh đã lọt vào mắt xanh của bọn học trò con gái tinh quái ấy không?

 

Em còn nhớ tính anh ít nói. Trong lúc mọi người ngồi huyên thuyên, thình thoảng anh chêm một câu pha trò hóm hỉnh mà nhiều khi người nghe không tinh ý, phải mất ba, bốn ngày sau mới hiểu. Cái tính "nghịch" ấy ngày nay anh vẫn không bỏ. Trong bài "Giòng Ðời", em vẫn đọc thấy thấp thoáng cái văn phong đó.

 

Anh cao lớn, nhưng không gầy như cây sậy và anh đâu có đen đúa xấu trai như anh tự chế diễu mình trong bài văn? Lại còn bày đặt tự chê mình học dốt!

 

Xong màn văn nghệ và đọc tin thời sự về những chiến thắng công đồn đả viện của bộ đội cụ Hồ cho dân chúng nghe, bọn học trò chạy xuống bờ biển nô đùa với sóng nước. Em nhớ đêm đó trăng lên muộn và trời trong xanh không một vẩn mây. Hình như đốm lửa trại cuối cùng tàn lụi rồi trăng mới lên. Khác với những học trò khác cùng lớp, anh không xuống bờ cát giỡn nước, giỡn trăng. Em thấy anh ngồi tựa lưng vào một cây dừa lả ngọn và đôi mắt đăm chiêu nhìn ra trùng khơi. Anh ngồi yên một cách thư thái, tự tại, đẹp như một pho tượng!

 

Em biết rồi, người đó đang mơ mộng vì người đó đang yêu?! Lúc bấy giờ những cơn sóng bạc đầu phản chiếu ánh trăng nhấp nhô vờn nhau xô vào bờ, có làm cho tim anh xao xuyến, hởi người nghệ sĩ với cây đàn?

 

Em là con gái, trời ban cho em cảm nhận bén nhạy hơn con trai. Kinh nghiệm đời trải qua, chắc bây giờ anh đã hiểu rõ điều đó. Hồi ấy, mới thoáng thấy cử chỉ ân cần và ánh mắt trìu mến của anh nhìn em trong lớp học, ngoài sân trường, em đã đọc được ý nghĩ thầm kín của anh. Nhưng em là con gái, đặc biệt vào thời buổi ấy, luân lý và bản tính rụt rè của phụ nữ đâu cho phép em có một cử chỉ gì gọi là biểu đồng tình, dù trong thâm tâm em cũng rất cảm mến anh. Cũng có những đêm nằm một mình vẩn vơ bên cửa sổ ngắm trăng, bỗng nhiên ngửi thấy mùi hoa cau bưởi từ đâu đưa lại, em chợt thèm có anh bên cạnh để... ngắm anh (!) Hoặc để luồn những ngón tay thon nhỏ của mình vào tóc người yêu. Ðó là cái rạo rực rất tự nhiên của người con gái ở tuổi dậy thì khi biết mình đang có một anh chàng đang ngấm nghé.

 

Em đã đọc đi đọc lại nhiều lần lá thư anh trao. Vì sự bất cẩn của em, con nhỏ Thủy - con gái ông Xã Tài - đọc trộm lá thư em dấu trong sách cho mượn, thế là nó đem đi mách lẻo với mọi người, gây ra sự hiểu lầm đáng tiếc khiến anh sinh lòng oán hận em. Nếu lá thư ấy bị một người bạn gái nào khác đọc thì chẳng đến nỗi nào. Ðằng này con nhỏ Thủy vốn thầm yêu trộm nhớ anh, nên khi nó vớ được lá thư là nó kháo ầm lên để anh phải thẹn thùng với đám bạn gái của em và hai bà chị họ. Nghĩ lại, em chẳng phiền trách gì nó. Âu cũng là tại sợi chỉ hồng không se duyên cuộc tình chúng mình!

 

Ngày anh cầm tay em lần đầu (và cũng là lần cuối), em đã khóc, đã hết lòng gạn hỏi tại sao anh bỏ học và cố tình lẩn tránh em. Anh cứ lầm lì im lặng. Không ngờ bữa đó anh đã quyết định xuống tàu trở lại chốn phồn hoa. Tuổi trẻ thường hay đặt tự ái quá cao! Anh đi biền biệt để lại cho em nỗi nhớ đoạn trường. Em thẩn thờ biếng nhác việc học hành và công việc trong nhà. Ba mẹ không hiểu chuyện cứ rầy la. Bỗng nhiên em cũng sinh lòng trách cứ anh. Anh đã từ phương xa lại, mình gặp gỡ nhau, anh gieo vào lòng em một vết thương, rồi anh lẳng lặng ra đi không một lời từ biệt. Bạn bè em một đôi đứa đem lòng thương hại, vài đứa trêu ghẹo em mang mối sầu tương tư. Em lại càng giận anh hơn.

 

Năm 1954, hiệp định Giơ-ne-vơ chia đôi đất nước. Một số người trong làng xã tập kết ra Bắc. Gia đình em vẫn ở lại vì thuộc thành phần địa chủ. Tổng Thống Diệm về nước, đẩy mạnh chiến dịch Tố Cộng. Gia đình em không bị ảnh hưởng gì, vì người ta biết thời ấy ai cũng chống Tây. Nhưng chỉ có một số cán bộ Tố Cộng của ông Diệm lợi dụng quyền thế, thấy em có nhan sắc nên họ gây nhiều khó dễ để cưỡng bách em trao thân gởi phận. Nếu em liều mình nhắm mắt đưa chân, chắc chắn em sẽ cũng được yên thân. Nhưng tính em ương ngạnh, không chấp nhận sự hà hiếp, em bèn tìm đường lên núi để rồi ngả về phía bên kia. Thân gái dậm trường, liều mình bỏ gia đình ra đi đến phương trời vô định, em nào muốn làm một cuộc phiêu lưu? Nhưng định mệnh nghiệt ngã đã đẩy em thành một kẻ ruồng bỏ quê hương!

 

Anh Duy yêu dấu,

 

Nhiều đêm em đã khóc, vì nỗi bơ vơ của mình nơi xứ lạ quê người. Em nhớ đến anh thật nhiều. Nhớ đến kỹ niệm của những đêm trăng ở làng quê mình, của những buổi chiều hai đứa rong chơi lang thang trên bờ ruộng lúa vừa mới gặt, của mùi hương ngai ngái từ gốc rạ thoảng đưa trong gió. Và em còn nhớ đến cái giọng Sàigòn ngồ ngộ của anh nữa!

 

Sự đãi ngộ ở miền Bắc không tốt đẹp như những gì mà "người ta" đã ngọt ngào dụ dỗ em. Cũng như những bộ mặt đàn ông nham nhở (xin lỗi anh) tìm đủ mọi cách chiếm đoạt em. Ở vào bước đường cùng, lần này em đành nhắm mắt đưa chân. Em kết hôn với một ông sĩ quan già hơn em mười lăm tuổi. Trong bài "Giòng Ðời" anh kể rằng em làm lẽ một viên tướng già là không đúng sự thực. Nhưng mà thôi, không sao! Làm vợ chính thức hay làm lẽ, số phận em vẫn hẩm hiu "bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi!"

 

Chiến tranh ngày càng lan rộng và khốc liệt. Phi cơ oanh tạc hầu như mỗi ngày. Ða số nhân dân miền Bắc đều mong mỏi được quân đội miền Nam giải phóng, vì họ hết chịu đựng nổi đói khổ và cuộc sống hắc ám, rình rập. Em là người miền Nam tập kết muộn. Tập kết vì tưởng mình sẽ đến một nơi như thiên đàng, chứ không phải vì lý tưởng hay bị huyễn hoặc bởi cái chủ nghĩa hứa hẹn không còn cảnh người bóc lột người! Em chỉ tha thiết một điều: Chiến tranh sớm chấm dứt, hòa bình mau trở lại để em được quay về xóm làng xưa. Em tình nguyện xung phong đi chiến trường B (tức là xuôi Nam ) với hy vọng nhìn lại Bố Mẹ già và đàn em dại. Em lên đường như một người tìm về nơi chôn nhau cắt rốn, chứ không phải là kẻ lên đường "làm nghĩa vụ quốc tế" như người ta cổ võ đề cao. Trở về đó, em lại nghe tin đồn phong phanh rằng anh đã trở thành người phi công khu trục của chính quyền Sàigòn. Chao ôi! có lần nào anh say sưa oanh kích mà dưới ấy là chỗ đóng quân của em? Nếu chẳng may bị trúng đạn phòng không, anh nhảy dù xuống và em là người băng bó cho anh, thì không hiểu bọn mình phải xử trí ra sao trong tình huống ấy? May mà điều ấy không bao giờ xảy ra để chúng ta khỏi bị ngỡ ngàng.

 

Có lần em nhặt được tờ truyền đơn kêu gọi chiêu hồi từ trên phi cơ thả xuống. Em vội dấu kỹ tờ truyền đơn vào lần túi áo trong để chờ dịp thuận tiện là trốn thoát, nhưng cơ hội không bao giờ đến với em cả!

 

Khi miền Nam được "giải phóng", em nghĩ rằng đây là cơ hội em có thể tìm gặp người bạn tình năm xưa. Em biết rằng gặp nhau thì đôi ta mỗi đứa ván đã đóng thuyền, không còn hy vọng gì chấp nối, nhưng ít nhất mình cũng còn được thấy nhau sau mấy mùa chinh chiến. Niềm hy vọng ấy vội tan biến khi em biết rằng anh đã ra đi nước ngoài. Tâm tình em xen lẫn hai nỗi buồn, vui: Buồn vì không gặp được anh và vui vì anh không phải rước cảnh tù đày. Anh còn nhớ Loan, em gái của em. Nó kết hôn với Cảnh, một người Thiếu tá trong quân đội Cộng Hòa. Chồng nó bị đưa đi "học tập cải tạo", rồi chết vì lao lực trong rừng thiêng nước độc và vì thiếu dinh dưỡng. Loan nhờ chồng em can thiệp cho Cảnh. Như anh biết đấy. Tuy chồng em là tướng Việt cộng mà cũng đành bó tay bất lực. Từ đó Loan không bao giờ nhìn mặt em nữa. Chị em cật ruột bỗng hóa thành kẻ thù. Nỗi khổ tâm ấy do ai gây ra, mà một mình em phải hứng chịu sự khinh khi của gia đình? Tại sao em phải chịu nhiều điều oan nghiệt thế hở anh Duy?

 

Năm kia, chú Lâm về Sàigòn, chú ấy kể rất nhiều chuyện về anh. Em vô cùng xúc động vì anh vẫn giữ được trong ký ức hình ảnh và tình cảm trân trọng đối với người bạn gái đầu đời. Vận nước điêu linh, thế hệ chúng mình chẳng may phải hứng chịu nhiều thua thiệt. Thật là vô lý khi hai kẻ yêu nhau trở nên vô tình quay mũi súng bắn vào nhau. Ước mong sao những lớp người thuộc thế hệ mình nhìn rõ chân lý để cùng nhau xây dựng lại xứ sở hoang tàn bởi một thứ chủ nghĩa ngoại lai phi nhân. Mình phải có bổn phận nói rõ cho con cháu nên lấy thương yêu, chứ không phải hận thù, bù đắp những lỗi lầm của người đi trước. Có như thế thì mới hàn gắn được những đổ vỡ lớn lao trong quá khứ.

 

Ðúng bốn mươi năm trước, dưới rặng dừa ở làng quê, anh e ấp trao em lá thư tỏ tình. Anh nao nức chờ đợi hồi âm. Em chưa kịp hồi âm thì không may xảy ra chuyện hiểu lầm. Bốn mươi năm sau, (nhờ đọc được bài văn của anh trên báo), từ phương trời này, một người đàn bà góa bụa và mái tóc đã bắt đầu điểm sương lại ngồi viết thư cho người bạn tình xa cách nửa vòng trái đất để kể lể chuyện đời. Xin cám ơn anh đã cho em một chút nắng trong buổi chiều tàn, "Một Chút Mặt Trời Trong Ly Nước Lạnh!" Ðời em truân chiên đã gặp nhiều bất hạnh, nhưng kể từ khi đọc những dòng tâm tư của anh trên trang báo, em cảm thấy được an ủi phần nào. Bây giờ thì em mới biết ở nơi cuối trời xa thẳm kia có một chàng trai Sàigòn thủa nào vẫn còn giữ trong tim hình ảnh và kỹ niệm đằm thắm của người yêu ban đầu.

 

Thư viết cho anh đã khá dài. Những giọt nước mưa trên mái nhà cũng đã thôi gõ đều đặn xuống tấm tôn. Ðêm đã xuống từ lâu. Cảnh vật yên lặng như tờ, nhưng dường như trong tiềm thức em vẫn nghe tiếng sóng biển rì rào và âm thanh xào xạc của những ngọn lá dừa cọ xát vào nhau. Biết bao giờ hai chúng ta có thể lại cùng nhau dạo chơi hóng gió chiều và nghe sáo diều trên đường làng quê cũ anh nhỉ? Ấy chết! Em lại lẩn thẩn mất rồi! Ðừng! Chúng mình không nên gặp lại nhau để anh còn giữ trong trí nhớ hình ảnh con bé Nga mười mấy tuổi, má lún đồng tiền và nụ cười răng khểnh.

 

Em xin dừng bút. Cầu chúc anh dồi dào sức khỏe và gia đình gặp nhiều sự may mắn, an khang, thịnh vượng. Và xin anh nhớ cho rằng ở nơi xứ sở nghèo khó này vẫn có một người luôn luôn thương nhớ anh.

 

Thân ái,

 

Em gái anh, Nga

 

Tái bút: Ðể tránh sự kiểm soát của nhà nước, em trao lá thư này cho một sĩ quan sắp sang Mỹ theo diện H.O. và nhờ ông ta gửi đến chú Lâm bằng đường bưu diện.