Search This Blog

Thursday, June 30, 2022

KHÔNG CÒN LÀ MỐI NGUY CƠ - BẰNG PHONG ĐẶNG VĂN ÂU - BÀI SỐ NĂM

 

https://khongquanc130.blogspot.com/2022/06/khong-con-la-moi-nguy-co-bang-phong-ang_50.html

Bài Thứ Năm

KHÔNG CÒN LÀ MỐI NGUY CƠ.

Bằng Phong Đặng văn Âu

Lời mở đầu : Nhận thấy Họa Diệt Chủng nòi giống Việt Nam không còn là nguy cơ, mà nó đang trên đà hiện thực, người viết xin dẫn chứng những sự kiện để giải thích tại sao mình quan niệm như thế. Người viết dành quyền phản biện cho quý vị thức giả. Bài viết sẽ thực hiện nhiều kỳ, kính mong quý độc giả quan tâm vui lòng kiên nhẫn theo dõi.

 

************************************************************************

 

Năm 1948, Tổng thống Harry Truman yêu cầu những Quốc gia Đồng minh phải chuẩn bị chấm dứt chế độ thuộc địa để Quốc Tế Cộng Sản không thể có lý do hô hào giải phóng các dân tộc bị trị. Để thực hiện yêu cầu của Tổng thống Harry Truman, nước Anh lo đào tạo những nhà Hành chính (Administrator) bản địa có khả năng điều hành việc nước để trao trả độc lập. Nhà tranh đấu bất bạo động giành độc lập cho Ấn Độ – Mahatma Gandhi – thành công là nhờ Thực Dân Anh đã có chủ trương thực tâm trao trả độc lập. Sự cai trị của Thực Dân Anh khôn ngoan, nên không có thuộc địa nào của Anh bị rơi vào tay cộng sản.

Nếu Thực Dân Pháp cũng có cách cai trị khôn ngoan như Anh Quốc, đối xử với nhà cách mạng Phan Chu Trinh như Anh Quốc đối xử với Mahatma Gandhi, thì nhà cách mạng Phan Chu Trinh cũng sẽ được nhân dân Việt Nam phong Thánh. Bởi vì Cụ Phan Chu Trinh cũng chủ trương tranh đấu bất bạo động và chấp nhận độc lập trong Khối Liên Pháp.  Nhưng Thực Dân Pháp tham lam, nhất định bám lấy thuộc địa, bỏ tù chung thân Cụ Phan Chu Trinh và thẳng tay đàn áp đẫm máu phong trào chống sưu cao thuế nặng. Đó là nguyên nhân vì sao Hồ Chí Minh mới có thể lôi cuốn những thanh niên trí thức yêu nước tham gia Việt Minh, mà không biết đấy là một tổ chức cộng sản trá hình. Ngoài ra, Mặt Trận Bình Dân của Pháp có xu hướng xã hội chủ nghĩa do Léon Blum cầm đầu là cơ hội bằng vàng cho Hồ Chí Minh phát triển tổ chức đảng. Trong khi đó lãnh tụ Đại Việt, lãnh tụ Quốc Dân Đảng vừa bị Thực dân Pháp đàn áp vừa bị Hồ Chí Minh thủ tiêu.

Cùng một lúc, nước Pháp phải đối phó mặt trận Bắc Phi gồm những quốc gia như Maroc, Tunisie, Algérie và mặt trận Đông Dương gồm ba nước Việt Miên Lào. Dần dần nước Pháp bị kiệt quệ. Sau trận Điện Biên Phủ, nước ta bị chia đôi, Hoa Kỳ nhảy vào, dùng Miền Nam làm cái nút chặn, ngăn cản sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản tới các quốc gia vùng Đông Nam Á. Hoa Kỳ tưởng rằng dân tộc Việt Nam giống như dân tộc Nhật, Hoa Kỳ có thể biến một Quốc gia Quân chủ thành một Quốc gia Dân chủ. Nhưng Hoa Kỳ đã lầm, vì Việt Nam là quốc gia bị đô hộ lâu dài (80 năm), bị chính sách chia để trị của Thực dân, những cán bộ Hành Chính và Quân Sự đều do Thực dân đào tạo, thì không thể giúp cho bất cứ nhà lãnh đạo Việt Nam nào muốn xây dựng chế độ dân chủ! Tôi xin nói rõ điều này để độc giả đừng hiểu lầm.

Đông đảo thanh niên trí thức Việt Nam yêu nước vì khát khao độc lập mà tham gia Việt Minh. Tới khi Việt Minh ló mòi cộng sản, thì thanh niên yêu nước không thể rút chân ra được, đành làm tay sai cho bọn Hồ Chí Minh phục vụ Quốc tế Cộng sản. Còn những quân nhân, công chức làm việc cho Pháp đều mang mặc cảm làm tay sai cho Thực Dân, thì khó lòng giương cao ngọn cờ độc lập. Do sự oái oăm của lịch sử, hai phía đều làm tay sai mà vô tình cứ ngỡ mình đang chiến đấu vì lý tưởng cao đẹp! Nỗi bất hạnh của dân mình là ở chỗ đó!

Hồ Chí Minh được các cơ quan Tình Báo như KGB của Nga, Stasi của Đông Đức, Hoa Nam của Trung Cộng đào tạo để thực hiện cuộc cách mạng (!) cướp chính quyền . Trong khi đó, những nhà ái quốc như Nguyễn Thái Học, Trương Tử Anh, Lý Đông A, Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ do lòng yêu nước mà đi làm cách mạng, chứ không được ai huấn luyện kỹ thuật đấu tranh cách mạng, mà lại vừa bị Thực Dân đàn áp, vừa bị một kẻ thù cực kỳ hung ác, gian manh là Việt Cộng thủ tiêu.

Do yêu cầu của vua Bảo Đại, ông Ngô Đình Diệm về nước với hai bàn tay trắng. Quyền hành vẫn còn nằm trong tay Thực dân Pháp. Tới tháng 7 năm 1955 ông Diệm mới lấy lại được chủ quyền. Cán bộ hành chính và quân sự có tiền sử làm việc cho Thực Dân Pháp với nếp sống và tác phong “tối sâm-banh, sáng sữa bò” thì làm sao có thể làm cách mạng để xây dựng một chế độ dân chủ?

Mời quý độc giả xem cái “Clip": https://www.youtube.com/watch?v=vm5VEcDzi2U để biết tất cả Tướng Lãnh VNCH đều từ Quân Đội Quốc Gia do Pháp thành lập. Họ chưa hề chỉ huy trận đánh nào, mà được Tổng thống Ngô Đình Diệm bổ nhiệm vào chức vụ như Tư Lệnh Quân Khu, Tư Lệnh Sư Đoàn, vì nhu cầu thời thế, là vượt quá khả năng của họ. Thủ tướng Ngô Đình Diệm đành phải dùng những ông Tây con như Tướng Trần văn Đôn, hoặc những nhân vật chẳng phải là Tây Con, nhưng chẳng có ý thức Quốc – Cộng để hết lòng chiến đấu.

Những thương gia ở Huế như nhà thầu khoán Nguyễn đắc Phương, nhà buôn Nguyễn văn Yến không phải là Việt Cộng, nhưng đều bị Việt Cộng ép buộc làm kinh tài cho chúng, khiến cho Đoàn Công tác Đặc biệt Miền Trung của ông Cố vấn Ngô Đình Cẩn không bắt, không được! Việt Cộng phao tin đồn Mật Vụ của Cậu Cẩn giết người để đoạt của! Quần chúng không biết rõ sự việc, lại bị Việt Cộng tuyên truyền “Cậu Cẩn” là hung thần Miền Trung, thì cứ thế mà tin theo!  Từ đó, Cậu Cẩn bị gán cho cái danh hiệu: “Hung Thần Miền Trung” là do Việt Cộng tuyên truyền.

Hoa Kỳ đã phạm một sai lầm rất lớn khi yêu cầu Tổng thống Ngô Đình Diệm xây dựng chế độ Dân Chủ. Muốn kiến tạo thành công một chế độ dân chủ để chống lại chủ nghĩa cộng sản, trước hết Chính quyền phải thiết lập một chế độ Cảnh Sát, Công An trị gồm có những cán bộ tình báo, phản gián rất lành nghề và tuyệt đối trung thành với Lý tưởng Quốc gia để tiêu diệt bọn gián điệp cộng sản chui vào bộ máy Chính Quyền và dạy cho dân hiểu cộng sản là con rắn độc, không thể chung sống với chúng. Tôi viết ra điều này, thế nào cũng làm cho các nhà hoạt động dân chủ, nhân quyền cho rằng tôi là loại người cực đoan, quá khích. Không! Thực tế đã chứng minh giữa ta và cộng sản là một mất, một còn. Không thể cho phép cộng sản hoạt động như một đảng chính trị, vì có cộng sản là không có dân chủ. Bằng cớ nước Mỹ có nền dân chủ lâu đời, mà bắt tay giao du với Trung Cộng, thì nền dân chủ của Mỹ bị phá sản như ta đã chứng kiến trong cuộc bầu cử năm  2020 vừa qua.

Những con cưng của Tổng thống Diệm phản bội là vì họ không có ý thức Quốc Gia và không hiểu nếu cộng sản thắng thì họ sẽ chết. Cũng vậy, những trí thức như Lê Khắc Quyến, Dương Quỳnh Hoa, Chu Phạm Ngọc Sơn, Ngô Bá Thành, Trương Như Tảng, Châu Tâm Luân, Lê Hiếu Đằng … hoạt động cho cộng sản đều là một lũ ngu si đần độn. Nếu chỉ có một chút xíu thông minh, bọn mệnh danh trí thức này chỉ cần quan sát mỗi khi có cuộc giao tranh giữa lính Cộng Hòa và lính Việt Cộng, dân chúng chạy về phía nào thì biết bên nào là chính nghĩa, bên nào là phi nghĩa. Một kẻ thất học còn biết, cần gì phải có cái bằng Tiến Sĩ? Bọn trí thức này trở nên ngu là vị bị quỷ ám!

Sau khi chế độ Ngô Đình Diệm bị giật sập, Miền Nam xảy ra nạn Kiêu Binh, Kiêu Tăng tưởng chừng như vô phương chấm dứt. Tướng Nguyễn Cao Kỳ bị đẩy ra làm Thủ Tướng do Tướng Nguyễn văn Thiệu và Tướng Nguyễn Chánh Thi mưu mô bàn tính nhau. Ai nấy đều cho rằng Tướng Kỳ quá trẻ, một tay ăn chơi, không có kinh nghiệm chính trị, thì chỉ “ba bảy hăm mốt ngày” là sụp đổ. Nhưng ngược lại, tình thế dần dần ổn định: Phật giáo Ấn Quang không dám lùa đạo hữu xuống đường và không một ông Tướng nào còn dám âm mưu đảo chánh. Chỉ bằng một thái độ cương quyết, quả cảm, không sợ chết, Tướng Nguyễn Cao Kỳ đã dẹp bọn Kiêu Tăng, bọn Tướng lãnh tạo phản một cách êm thấm. Và bọn gian thương Ba Tàu ở Chợ Lớn cũng không dám sử dụng môn võ “đầu cơ tích trữ” bóp nghẹt bao tử của dân nghèo.

Theo nhận định của nhà báo thân Cộng Fallaci: Nguyễn Cao Kỳ đáng... là lãnh tụ của một vùng đất thiếu lãnh tụ một cách đau đớn”. Qúy vị sẽ nhận thấy điều đó khi ngỡ ngàng lắng nghe ông ta khoảng hơn 10 phút. Tướng Kỳ không phải là một anh chàng ngố, ông ta có điều muốn nói, và ông nói huỵch toẹt mà không sợ vạ miệng.”

Độc giả hãy bỏ ra ngoài tinh thần phe phái, hãy lấy lương tâm vô tư, trong sáng để xét xem một chàng phi công Việt Nam nổi tiếng ăn chơi, có phải là một thứ vô tài, bất tướng, ăn hại đái nát? Dẹp cơn Biến Động Miền Trung mà trước đó ba vị Tướng Lục Quân đã thất bại, Tướng Kỳ đã tái lập trật tự một cách êm thấm không đổ máu, chẳng là một kỳ công hay sao? Theo tôi, Tướng Kỳ đã sai lầm vì đã không đưa những sĩ quan chống Chính quyền Trung ương ra Tòa Án Mặt Trận để giữ sự nghiêm minh của phép nước!

Giả thiết rằng Tướng Kỳ cũng thất bại trong vụ dẹp loạn như ba ông Tướng Nguyễn văn Chuân, Huỳnh văn Cao, Tôn Thất Đính và Phong Trào Nhân Dân Cứu Quốc của bác sĩ Lê Khắc Quyến đạt được mục đích dâng Miền Trung cho Việt Cộng, liệu Trường Đại Học Y Khoa Huế có tồn tại để đào tạo những bác sĩ danh giá và giàu sang như ngày nay?

Trí Quang thất bại trong cuộc bạo loạn Miền Trung, Phong trào Nhân Dân Cứu Quốc của Bác sĩ Lê Khắc Quyến cũng tàn lụi.

Trí Quang bị Tướng Loan dẫn độ về Saigon. Lo ngại Tướng Kỳ đối xử mạnh tay với Trí Quang, Đại sứ Henry Cabot Lodge dặn dò Tướng Kỳ: “Xin ông Tướng đừng sử dụng biện pháp mạnh để Trí Quang có cớ mà phát động bạo loạn thêm nữa”. Tướng Kỳ vui vẻ đáp: “Xin ông Đại sứ đừng lo! Tôi đã có cách”. Tướng Kỳ bảo sĩ quan tùy viên ra bệnh viện Duy Tân, mời bác sĩ Nguyễn Duy Tài vào Tân Sơn Nhất trình diện ông.

–  Ngày mai ông Trí Quang đến tuyệt thực tại công viên Alexandre de Rhode gần nhà thương của anh. Tôi giao cho anh trách nhiệm buổi tối mang Trí Quang vào nằm phòng lạnh, lo tẩm bổ sâm nhung cho Thầy béo tốt, da dẻ hồng hào. Nếu anh không làm được việc đó, tôi đóng cửa bệnh viện của anh.

Bác sĩ Nguyễn Duy Tài vâng dạ, rồi ra về, nghĩ cách làm sao cho Trí Quang lên cân, béo tốt. Sau hơn 40 ngày tuyệt thực, tình trạng sức khỏe của Trí Quang không một chút suy giảm. Trái lại, da dẻ của ông hồng hào, làn môi bớt thâm hơn trước. Lúc bấy giờ quần chúng Phật tử biết rằng vị Thầy khả kính của mình bày trò tuyệt thực là bịp. Ngồi kiết già tuyệt thực chán chê hơn 40 ngày, thấy chẳng có tác dụng với quần chúng, Thầy lặng lẽ cuốn chiếu, trở về Chùa để nhận lãnh mệnh lệnh mới của Trung Ương Cục Miền Nam.

Ông Đại sứ Cabot Lodge đích thân vào tư dinh Tướng Kỳ ở Tân Sơn Nhất để bày tỏ sự cảm phục cách hành xử khôn ngoan của Tướng Kỳ làm cho Trí Quang mất uy tín với đồng đạo. Ai dám bảo Tướng Kỳ là kẻ vũ biền it học, không có mưu trí? (Ở đây tôi xin nhấn mạnh một điều: Kể từ khi sự kiện ngoạn mục của Tướng Kỳ đối với Trí Quang, Đại sứ Mỹ như Henry Cabot Lodge, Ellsworth Bunker thường xuyên đến tư dinh Tướng Kỳ để tham khảo ý kiến).       

Vũ văn Mẫu là người có bằng cấp to, nhưng là một nhà chính trị bất lương, cơ hội (opportunist), được Tổng thống Ngô Đình Diệm trong vọng, lại ngu dốt chạy đi làm đầy tớ cho Trí Quang, bày trò xuống tóc để ủng hộ cuộc đấu tranh vì Đạo Pháp của Trí Quang. Loại trí thức như Vũ văn Mẫu rất đáng khinh vì không đủ trí tuệ để nhìn thấy Trí Quang là một tên tay sai đắc lực của Việt Cộng. Các Tướng lãnh, các Chính khách thời bấy giờ đều tỏ ra nể sợ Trí Quang thì cũng là loại hèn và ngu dốt. Chỉ có Tướng Kỳ mới có thể làm cho Trí Quang bẽ mặt, nên tự ý chấm dứt cái trò Xuống Đường đấu tranh vì Đạo Pháp!

Vào giai đoạn cực kỳ khó khăn của đất nước, Tướng Thiệu và Tướng Thi không dám nhận lời đề nghị của Tướng Kỳ để làm Thủ tướng, vì sợ thất bại. Trong khi đó Tướng Kỳ, một quân nhân trẻ tuổi, không có kinh nghiệm chính trị, chỉ có lòng yêu nước và lòng quả cảm, dám nói dám làm, đã khiến cho các nhà sư trong Khối Phật giáo Ấn Quang chấm dứt cuộc tranh đấu bạo loạn; nạn các Tướng đảo chánh, chỉnh lý cũng ngưng, gian thương Ba Tàu Chợ Lớn cũng không còn dám khuynh đảo thị trường, giới lao động và quân nhân lạc quan tin tưởng nhờ những biện pháp hữu sản hóa dân nghèo. Đặc biệt, triệt hạ cuộc Biến Động Miền Trung trong hòa bình là thành tích đáng ghi nhớ nhất. Đó là những sự kiện thực sự đã xảy ra. Người viết không bịa chuyện để tâng bốc ông Kỳ như một số độc giả lầm tưởng. Tuy không phải là nhà sử học, nhưng tôi đang viết những vấn đề liên quan đến lịch sử, dựa trên sự kiện mà tôi có may mắn biết đến.

Tướng Kỳ ý thức rằng việc Chống Cộng là nhiệm vụ của các Quốc gia Tự Do, chứ không riêng gì Hoa Kỳ hay Việt Nam. Vì thế, khi nhận lãnh chức vụ Thủ tướng, tuy ông Kỳ vẫn lưu giữ Cụ Trần văn Đỗ làm Bộ trưởng Ngoai giao trong Chính phủ Phan Huy Quát, nhưng phần lớn công tác vận động Ngoại giao đều do Tướng Kỳ đích thân đảm nhiệm bằng những chuyến công du các nước.

Tướng Kỳ công du Đài Loan, Thống Chế Tưởng Giới Thạch sau khi đàm đạo với Tướng Kỳ, vị Thống Chế già rất tâm đắc, tặng thanh bảo kiếm khắc bốn chữ “Uy Dũng Tướng Quân” tượng trưng cho quyền lực lãnh đạo Quốc Gia với hy vọng Tướng Kỳ sẽ là người kế thừa sự nghiệp Chống Cộng của mình. Thủ tướng Tunku Abdul Rahman Mã Lai đề nghị Quốc vương Mã Lai phong cho Tướng Kỳ chức TUN, giống chức Bá Tước của nước Pháp. Trong cuộc họp của Khối Liên Phòng Đông Nam Á (ASEAN giống NATO của Âu Châu) tại Phi Luật Tân, các nguyên thủ Quốc gia đều mặc quốc phục truyền thống của nước chủ nhà. Riêng Tổng thống Đại Hàn Phác Chính Hy và Tướng Kỳ vẫn mặc y phục của nước mình. Tổng thống Phác Chính Hy tỏ ra tâm đắc, nói: “You are Number One!”. Tướng Kỳ vội chữa: “No! General Thiệu is Number One”. Tổng thống Phác Chính Hy vẫn khăng khăng lặp lại: “No! No! You are Number One!” Tức là Tổng thống Phác vẫn đánh giá Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ mới thực sự là người Số 1 lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa.

Năm 1966, Thủ tướng Harold Holt gửi thư mời Tướng Kỳ sang thăm viếng nước Úc. Tòa Đại sứ Mỹ ở Saigon khuyên Tướng Kỳ không nên đi, vì Phong trào Chống Chiến Tranh ở Úc rất mạnh. Nhưng Tướng Kỳ vẫn đi để chứng tỏ mình là người có bản lĩnh, dám đương đầu với thử thách. Thủ tướng Holt ra đón Tướng Kỳ tại sân bay Melbourne. Lãnh tụ đối lập Arthur Caldwell, chừng 60 tuổi, là một người chống chiến tranh Việt Nam dữ dội nhất. Ông ta đã huy động 100 ngàn dân Úc biểu tình chống Nguyễn Cao Kỳ bằng những khẩu hiệu “Child Killer”, “Farcist” “War Monger” dọc bên đường từ phi trường đến địa điểm họp báo. Thủ tướng Holt ngồi chung xe với Tướng Kỳ. Tướng Kỳ yêu cầu tài xế dừng xe lại, bước xuống xe và đi thẳng tới đoàn người biểu tình. Nhân viên bảo vệ an ninh bị một phen lên ruột, vì lo sợ tính mạng của vị khách đặc biệt của nước mình. Tướng Kỳ giải thích với người chống đối rằng nước Việt Nam đang bị xâm lăng bởi cộng sản. Ông là lãnh tụ của Quốc gia bị xâm lăng, thì phải chiến đấu để bảo vệ Tổ Quốc và Tự Do. Quý vị có thấy cuộc chiến đấu của chúng tôi là chính đáng không? Xin những người Úc bạn với dân tộc Việt Nam hãy yêu cầu cộng sản Miền Bắc buông súng, ngưng cuộc xâm lăng, hòa bình lập tức được tái lập ngay. Chỉ bày tỏ một cách giản dị như vậy, người Úc hiểu ngay và đoàn biểu tình không còn la hét nữa. Thủ tướng Holt khen Tướng Kỳ là một người rất can đảm và thông minh, đã hóa giải cuộc biểu tình bằng mấy câu nói ngắn ngủi.

Tới địa điểm họp báo với 500 phóng viên chờ sẵn, tướng Kỳ ung dung bước vào phòng hội với dáng vẻ rất tự tin. Một nhà báo hỏi: “Ông Thủ tướng nghĩ thế nào về những lời kết tội “Child Killer”, “War Monger”, “Farcist” của Dân biểu Caldwell? Ông Kỳ mỉm cười, rồi thong thả đáp: “Như các bạn biết, tôi là người Á Châu được dạy câu ‘Kính Lão Đắc Thọ’, nên tôi coi Cụ Caldwell giống như Người Ông của mình. Ông ta có nói gì về tôi, tôi vẫn kính trọng ông ấy”. Không khí căng thẳng của Hội trường bỗng nhiên trở nên lắng dịu, qua câu trả lời rất dí dỏm phản ảnh nếp văn hóa Á Châu. Hôm sau, báo chí Úc vẽ bức tranh hí họa anh chàng trẻ Nguyễn Cao Kỳ đẩy xe lăn cho cụ già Arthur Caldwell. Điều đáng nói là lãnh tụ Arthur Caldwell bị thất cử vào cuộc bầu cử sau đó và sự sự nghiệp chính trị của Cụ cũng đi vào bóng tối.

Một nhà báo cộng sản nói rằng Tướng Kỳ chỉ là Thủ tướng của Saigon, vì các tỉnh của Miền Nam đã được Miền Bắc giải phóng. Tướng Kỳ ngỏ lời mời người ký giả theo chuyến bay của ông về Saigon để biết sự thật. Chính Quyền sẽ dành cho ký giả quyền đi bất cứ nơi nào trên mảnh đất Miền Nam mà ký giả muốn. Sau chuyến đi Việt Nam, thăm viếng các nơi một cách thong thả, người ký giả cộng sản trở về Úc và tuyên bố bỏ đảng, vì đảng cộng sản Úc nói láo!

Viên chức làm công tác truyền thông của nền Đệ Nhất lẫn Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa rất bết, vì không cung cấp đầy đủ thông tin cho quần chúng biết thành quả của Tổng thống Ngô Đình Diệm, cũng như của Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ. Vì thế, Việt Cộng mới có thể lợi dụng để tuyên truyền. Tôi tin rằng những quân nhân từng chiến đấu dũng cảm dưới cờ cũng không biết hề biết những sự kiện mà tôi nêu trên.

Mời độc giả kiên nhẫn đọc những bài viết tiếp theo để tôi chứng minh nước Việt Nam đã mất vào tay Việt Cộng và nòi giống Việt Nam rồi cũng không còn.

Bằng Phong Đặng văn Âu, ngày 30 tháng 6 năm 2022.

Địa chỉ nhà: 10200 Bolsa Avenue, Westminster, CA.92683.

Địa chỉ Email: bangphongdva033@gmail.com

Điện thoại: 714 – 276 – 5600.

 


 

 

Sunday, June 26, 2022

KHÔNG CÒN LÀ MỐI NGUY CƠ - BẰNG PHONG ĐẶNG VĂN ÂU - BÀI SỐ 4

 

Bài Thứ Tư

KHÔNG CÒN LÀ MỐI NGUY CƠ.

Bằng Phong Đặng văn Âu

Lời mở đầu : Nhận thấy Họa Diệt Chủng nòi giống Việt Nam không còn là nguy cơ, mà nó đang trên đà hiện thực, người viết xin dẫn chứng những sự kiện để giải thích tại sao mình quan niệm như thế. Người viết dành quyền phản biện cho quý vị thức giả. Bài viết sẽ thực hiện nhiều kỳ, kính mong quý độc giả quan tâm vui lòng kiên nhẫn theo dõi.

 

*********************************************************************

 

Nước Việt Nam ta không có những nhà hiền triết như Ấn Độ, như Tây phương. Nhưng Tổ tiên ta đã để lại cho con cháu một kho tàng Ca dao, Tục ngữ vô giá mà con cháu biết tuân theo, thì ngày nay cả thế giới kính trọng người Việt Nam chẳng kém gì kính trọng người Nhật Bản.

Chẳng hạn, chỉ bằng hai câu lục bát: “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” vừa nhẹ nhàng vừa thiết tha tình người. Trong Cộng Đồng Dân Tộc có người Kinh, người Thượng, tuy chủng tộc khác nhau như bí với bầu, nhưng cùng chung sống trên một mảnh đất (tức là cùng một giàn) thì hãy tương thân tương trợ để cùng tồn tại có phải là tốt đẹp hơn không? Nếu vua Gia Long thấm nhuần ý nghĩa sâu sắc câu ca dao ấy thì đâu đến nỗi xuống tay một cách tàn nhẫn, nhỏ mọn đối với anh em dòng dõi Nhà Tây Sơn, đối với những tùy tướng của Nhà Tây Sơn? Sự kiện đào mả vua Quang Trung, lấy thủ cấp của kẻ thù làm cái chậu để ngày ngày phóng uế vào đó, là hành vi bất xứng của Đấng Quân Vương. Dù mối thù riêng đối với Nhà Tây Sơn cao đến mấy, là người lãnh đạo quốc gia, vua cũng phải tỏ ra kính trọng một bậc anh hùng dân tộc đánh đuổi quân thù ra khỏi nước. Giá như vua Gia Long có lối hành xử mã thượng anh hùng, con cháu của Ngài sẽ noi gương tâm hồn cao thượng vĩ đại của Vua Cha để mà trị nước, thì xã tắc sơn hà bền vững lâu dài.

Nếu vua Gia Long hiểu lời cảnh báo của tiền nhân “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước” thì phải biết Luật Nhân Quả sẽ không trừ một ai, thì Ngài đã không để lại cho lịch sử một vết dơ đáng xấu hổ như thế! Vì Thái Tổ Nhà Nguyễn đã  lạnh lùng, tàn nhẫn sử dụng sự báo thù để hả dạ, nên con dân nước Việt mới bị lãnh hậu quả như ngày nay.

Dân tộc ta có những bậc khí phách như Thầy Chu văn An, dũng cảm như Tướng Trần Bình Trọng, thông minh như Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tại sao bộ óc của những nhà trí thức thông thái Việt Nam bỗng trở nên đần độn, u mê để không thấy Hồ Chí Minh dựng lên nền “vô sản chuyên chính” thì sẽ đẩy nhân dân tới chỗ bần cùng, tất nhiên cả nước chỉ còn biết đi ăn trộm để sống mà thôi? Tiền nhân đã khuyến cáo: “Bần cùng thì sinh đạo tặc” cơ mà! Tại sao họ không thấy?

Quê Nghệ An của tôi có một nhà trí thức tên là Tạ Quang Bửu nổi tiếng giỏi đủ các bộ môn khoa học, văn chương, ngoại ngữ, triết học. Bộ trưởng Thanh Niên – Luật sư Phan Anh – trong Chính phủ Trần Trọng Kim chỉ định Giáo sư Tạ Quang Bửu làm Hiệu trường Thanh Niên Tiền Tuyến, một trường Quân sự đầu tiên của Việt Nam, gồm những tinh anh của nước nhà. Nhưng không ngờ Giáo sư Tạ Quang Bửu là người có tư tưởng cộng sản, nên hầu hết “rường cột nước nhà” đều trở thành công cụ cho Hồ Chí Minh thực hiện ý đồ diệt chủng dân tộc Việt Nam. Giáo sư Tạ Quang Bửu làm Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng, dưới quyền Võ Nguyên Giáp, là người ký Hiệp Định Geneve chia đôi đất nước. Mặc dầu chứng kiến Hồ Chí Minh ngược đãi, đàn áp trí thức như Phan Khôi, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo … trong vụ Nhân văn Giai Phẩm, tại sao một người nổi tiếng thông minh về nhiều bộ môn như Tạ Quang Bửu không thấy đất nước sẽ bị thụt lùi trong ngu dốt? Nếu đánh đuổi Thực dân Pháp thành công, thử hỏi chế độ cộng sản chủ trương ngu dân, làm sao có thể mang lại một nền văn minh, một xã hội nhân ái, hài hòa bằng sự đô hộ của Thực dân? Bị bệnh tiểu đường, hai chân sưng húp, Tạ Quang Bửu vẫn cố gắng đứng cả ngày trong xưởng chế tạo vũ khí đánh cho “Mỹ cút, Ngụy nhào”, vậy chỉ có hai chữ “quỷ ám” mới giải thích nổi sự ngu si, đần độn của thầy Tạ Quang Bửu mà thôi. Giáo sư Tạ Quang Bửu phải thấy sau Hoa Kỳ dội hai quả bom nguyên tử để sớm chấm chiến tranh với Nhật. Nhưng sau đó Hoa Kỳ đã đưa nước Nhật đến chế độ Dân Chủ và thịnh vượng đứng vào hàng thứ hai trên thế giới. Vậy có phải Hoa Kỳ là Đế Quốc hay không? Vậy tôi nói rằng trí thức Việt Nam thông minh, càng có bằng cấp to, càng ngu là đúng hay sai?

Hình như chủ nghĩa cộng sản có bùa mê thuốc lú hay sao đó, nó mới có thể làm cho nhiều nhà trí thức thức thông minh cỡ Giáo sư Tạ Quang Bửu trở thành ngu si, đần độn, điên say phục vụ cho một chế độ biến con người thành súc vật. Gần một triệu người Miền Bắc phải rời bỏ nơi chôn dau cắt rốn để chạy trốn vào Miền Nam tìm tự do, không thể làm trí thức mở mắt, không ngăn được sự phản bội của bọn Tướng lãnh, Tổng thống Ngô Đình Diệm và gia đình đành phải chết bởi chân tay bộ hạ mà thôi.

Sau cái chết của Tổng thống Diệm vào ngày 2 tháng 11 năm 1963, tình hình chính trị thêm bết bát. Tu sĩ Phật giáo trở thành bọn kiêu tăng. Các Tướng lãnh trong cái gọi là “Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng” tổ chức đảo chánh, chỉnh lý liên tục. Ba Tàu Chợ Lớn thừa cơ khuynh đảo thị trường. Việt Cộng thừa dịp tiến dần về thành thị. Quân sĩ vốn sống thiếu thốn vật chất, nay tinh thần thêm sa sút, hoang man, thì sự mất nước chỉ còn là vấn đề thời gian. Tướng Nguyễn Khánh trở thành anh hề chính trị, lúc để chòm râu dê, lúc cạo nhẵn thín theo sự chỉ dạy của các thầy tướng số. Kéo các Tướng lãnh ra Vũng Tàu làm Hiến Chương, bị Việt Cộng kích động sinh viên biểu tình phản đối, Tướng Nguyễn Khánh nhảy lên chiến xa, tung quả đấm tay lên trời và miệng hô lớn “Đả đảo Nguyễn Khánh”. Mang danh là lãnh đất nước, lại vung tay hô đả đảo chính mình, thì đất nước còn ra cái quái gì nữa! Tại sao ông Khánh không nghĩ đến câu “Nhật Tướng công thành, vạn cốt khô” mà hành xử cho ra tư cách của người làm Tướng? Thật là một cảnh tượng đáng xấu hổ trước mắt thế giới, trước Đồng Minh Hoa Kỳ! Quý vị chiến hữu còn hãnh diện mình là Người Lính Việt Nam Cộng Hòa nữa không, khi phải chịu sự chỉ huy của thành phần Tướng lãnh bất xứng?

Chính phủ Dân Sự ra đời, dưới sự lãnh đạo của Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ tướng Phan Huy Quát. Người dân hy vọng các Tướng lãnh trở về vị trí của mình, lo việc “Bảo Quốc, An Dân” để dân chúng an cư lạc nghiệp. Tôi nghĩ rằng chọn bác sĩ Phanh Huy Quát làm Thủ tướng là đúng, vì ông là một chính trị gia lương thiện, có đạo đức và có kinh nghiệm, vì lúc trẻ từng làm Bộ trưởng trong Chính phủ Trần Trọng Kim và sau đó lần lược làm Bộ trưởng Bộ Giáo dục, Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao. Quốc trường Phan Khắc Sửu là một nhà hoạt động chính trị yêu nước, luôn luôn tranh đấu đòi hỏi Thực dân Pháp trả  độc lập cho nhân dân Việt Nam, từng bị tù Côn Đảo. Ai cũng tưởng hai nhà lãnh đạo cùng họ Phan có kinh nghiệm chính trị, có lòng yêu nước sẽ ổn định tình hình sau khi các Chính phủ Quân nhân thay nhau sụp đổ. Không ngờ chỉ vì mối hiềm khích rất nhỏ, hai vị không thể hòa giải nhau, đưa đến sự từ chức của Thủ tướng Phan Huy Quát vào ngày 18 tháng 6 năm 1965 và trao trách nhiệm cho Quân Đội. Có phải vì bị oan hồn người Chàm hành, đã khiến cho hai nhà chính trị yêu nước không thể đoàn kết với nhau? Đâu phải tại vì hai vị lãnh đạo đều ngu!?

Đêm 18 tháng 6, Thủ tướng Phan Huy Quát mời các Tướng lãnh đến Dinh Thủ tướng để tường trình sự xung khắc với Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và tuyên bố quyết định giải tán Nội Các để giao lại cho Quân Đội. Lúc bấy giờ, Tướng Tư lệnh Không Quân Nguyễn Cao Kỳ lên tiếng đề nghị: “Hai nhà lãnh đạo cố gắng hòa giải với nhau, anh em quân nhân chúng tôi chán ngán chính trị lắm rồi, chúng tôi chỉ chú tâm lo đánh giặc”. Nhưng Thủ tướng Phan Huy Quát cho biết bản tuyên bố giải nhiệm Nội Các sẽ được đọc trên đài phát thanh trong chốc lát. Câu hỏi đặt ra: “Tại sao Cụ Phan Khắc Sửu và bác sĩ Phan Huy Quát đều là hai nhà trí thức yêu nước nhiệt tình, không thể vì sự sống còn của Tổ Quốc để cùng nhau điều khiển con thuyền đang chồng chềnh trong giông bão giữa biển khơi? Giông bão đây là Nhóm Phật giáo Ấn Quang – tay sai Việt Cộng – đang mưu toan dâng Miền Nam cho cộng sản ở Miền Bắc? Đâu phải hai ông không đủ trí tuệ để không thấy âm mưu của Việt Cộng dùng Phật giáo làm quân cờ?” Tôi càng nghi ngờ lời nguyền rủa của người Chàm đã tác động lên sự chia rẽ của người lãnh đạo Quốc gia!

Ngày hôm sau, các Tướng lãnh họp nhau tại Câu Lạc Bộ Hải Quân ở Bến Bạch Đằng để chọn người lãnh đạo Quốc Gia. Trước hết, Tướng Kỳ đề nghị Trung tướng Nguyễn văn Thiệu làm Thủ tướng – một vị Tướng cao niên và đương kim Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Quốc Phòng trong Nội các Phan Huy Quát, một đề nghị rất chính đáng, nên được các Tướng lãnh vỗ tay tán thưởng. Nhưng Tướng Thiệu không nhận. Tướng Kỳ vẫn kiên nhẫn thuyết phục thêm ba lần nữa, đến nỗi Tướng Thiệu cứng rắn phát biểu: “Nếu anh em cứ ép buộc tôi làm Thủ tướng, tôi sẽ tuyên bố giải tán Đại Hội hôm nay”. Tướng Kỳ bèn quay sang đề nghị Trung tướng Nguyễn Chánh Thi. Nhưng giống như Tướng Thiệu, Tướng Thi cũng cương quyết chối từ. Chẳng phải hai ông Tướng Thiệu và Tướng Thi không ham chức Thủ tướng. Hai ông đều thấy tình hình quá khó khăn, sợ mình không đảm đương nổi, thì tương lai chính trị sẽ bị cháy rụi. Tới giờ ăn trưa, cuộc họp tạm ngưng. Tướng Thiệu, Tướng Thi bàn tính với nhau, rồi vẩy Tướng Kỳ bước tới và nói: “Moa (Tướng Thiệu) và anh Thi bàn tính nhau đưa toa (Tướng Kỳ) ra đảm nhiệm chức Thủ tướng. Khi xong buổi ăn trưa, vào họp tiếp, moa sẽ đề nghị toa giữ chức Thủ tướng, đừng từ chối nhé! Bọn moa sẽ yểm trợ toa hết mình”. Ở đây, tôi kể theo lời thuật của Trung tá KQ Nguyễn Khoa Dánh, cố vấn chính trị đặc biệt của Tướng Kỳ.

Vào họp lại, Trung tướng Nguyễn văn Thiệu – Chủ tọa phiên họp – dõng dạc tuyên bố: “Chúng tôi đã bàn tính với nhau, chúng tôi đề cử Thiếu tướng Tư Lệnh Không Quân Nguyễn Cao Kỳ trách nhiệm thành lập Chính phủ”. Lời tuyên bố của Tướng Thiệu giống như một mệnh lênh ban ra, người được chỉ định phải thi hành “phi vụ” theo quân kỷ. Đại Hội vỗ tay. Tướng Kỳ đứng lên đáp: “Là quân nhân, được Trung tướng đương kim Phó Thủ tướng, kiêm Bộ trưởng Quốc phòng chỉ định thi hành phận sự, tôi xin tuân lệnh. Nhưng tôi có một yêu cầu, các Tướng vỗ tay ủng hộ tôi, thì các vị phải nghiêm chỉnh thi hành mệnh lệnh của tôi giao phó”. Đại Hội lại vỗ tay để biểu lộ họ chấp nhận.

Tôi thuật đoạn này để độc giả nhận thấy Tướng Kỳ làm Thủ tướng là do Tướng Thiệu và Tướng Thi có cấp bậc cao hơn trốn tránh trách nhiệm, đùn đẩy cho Tướng Kỳ, chứ chẳng phải vì lợi ích Quốc gia. Trung tướng Thiệu giữ chức Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia, Thiếu tướng Kỳ giữ chức Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương và Trung tướng Phạm Xuân Chiểu giữ chức Tổng Thư ký. Nội Các mang tên Nội Các Chiến tranh. Bộ trưởng các Bộ gọi là Ủy viên. Báo chí và dư luận trong dân chúng đều đoán rằng Nội các Chiến tranh sẽ đổ chừng vài tháng sau, vì Tướng Kỳ là một tay ăn chơi (playboy), không có kinh nghiệm chính trị, bốc đồng. Chẳng ngờ Tướng Kỳ đã mang lại sự ổn định, tinh thần quân sĩ phấn chấn, vì ông cấp tốc có biện pháp thiết thực giúp đỡ đời sống thiếu thốn của anh em đồng đội. Thấy ông là người nhiệt tình, thanh liêm, các Ủy viên dần dần tỏ ra mến phục ông.

Trước hết tôi xin đưa lên đây bài tường thuật của bà Fallaci, một ký giả tả khuynh, phỏng vấn Tướng Kỳ để độc giả biết nhà báo ngoại quốc đánh giá Tướng Kỳ là người thế nào:

https://khongquanc130.blogspot.com/2022/06/ky-gia-falaci-phong-van-tuong-ky.html

Và sau đây là mẩu chuyện do Đại tá Dương Thiệu Hùng kể cho tôi về cuộc họp đơn vị trưởng dưới sự chủ tọa của Tư lệnh Không Quân Nguyễn Xuân Vinh, Về sau, Đại tá Trần Đỗ Cung viết Hồi ký cũng thuật lại cuộc họp đơn vị trưởng này, nhưng với luận điệu chế giễu:

“Trong cuộc họp đơn vị trưởng, Trung tá Nguyễn Cao Kỳ – Chỉ huy trưởng Liên Phi Đoàn Vận tải – rút khẩu súng lục đeo bên người và nói: “Tôi không đồng ý chính phủ đưa chính trị vào Quân Đội. Vì làm như thế, cấp Chỉ Huy Quân Đội sẽ chỉ là kẻ bất tài và khéo nịnh. Còn người có tài, nhưng không muốn lệ thuộc vào đảng, sẽ bị loại.” Sau câu nói đó, không khí buổi họp trở nên căng thẳng, một sự im lặng khó thở, bởi vì ông Tư Lệnh không biết xử trí ra sao. Bác sĩ Nguyễn Tấn Hồng lên tiếng phá tan sự im lặng: “chiều nay có trận đá banh giữa Áo quốc với Hội tuyển Việt Nam, tôi đề nghị ngưng buổi họp hôm nay, rồi ngày hôm sau chúng ta sẽ tiếp tục họp”. Mọi người đều đồng ý đề nghị của bác sĩ Nguyễn Tấn Hồng để hóa giải thế bí của ông Tư Lệnh. Nhân chứng về sự kiện này còn minh mẫn đến ngày hôm nay là Đại tá Đào Huy Ngọc – 92 tuổi – đang sống tại Hawaii.

Mọi người thư thái ra về. Tư Lệnh Nguyễn Xuân Vinh gọi điện thoại trách ông Kỳ: “Tại sao toa không nói riêng quan điểm của toa với moa, mà lại đem ra giữa buổi họp để làm cho moa khó xử?”. Ông Kỳ đáp: “Tôi muốn nói cho các đơn vị trưởng hiểu rằng đem chính trị vào Quân đội thì sẽ gây bè cánh, mất đoàn kết giữa anh em. Tôi nói riêng với Đại tá thì giải quyết được gì?”. Đại tá Đỗ Mậu biết sự gây cấn trong buổi họp đơn vị trưởng, trình nội vụ lên ông Cố vấn Ngô Đình Nhu. Ông Cố vấn nói: “Kỳ là con người bộc trực và lãng mạn, nhưng yêu nước. Tôi sẽ gặp riêng Kỳ và giải thích cho anh ta hiểu tại sao Quân Đội cần chính trị hóa trong hoàn cảnh đánh nhau với cộng sản”.

Tôi nghĩ rằng có lẽ ông Cố vấn Ngô Đình Nhu noi gương Tổng Thống Tưởng Giới Thạch sau khi rời lục địa, chạy ra đảo Đài Loan thì đem chủ nghĩa Tam Dân của Quốc Dân Đảng áp dụng vào tổ chức Quân Đội, giống như phía đảng Cộng sản có chính trị viên. Ông Kỳ may mắn phục vụ chế độ dân chủ dưới sự lãnh đạo của anh em ông Diệm. Nếu ở Miền Bắc, ông Kỳ bày tỏ sự bất đồng với chính sách của chế độ, ông Kỳ sẽ bị triệt tiêu ngay. Kết tội chế độ Ngô Đình Diệm độc tài là một sự vu khống trắng trợn, đáng khinh bỉ.

Dưới đây, tôi xin kể ra một số việc làm mà các sử gia có thể biết mà không viết ra, nhưng có một số anh em Không Quân chúng tôi biết:

1/  Chế độ Ngô Đình Diệm đã bị thanh toán, nhưng các nhà sư Phật giáo vẫn tiếp tục tranh đấu. Các Tướng lãnh, các chính trị gia có vẻ sợ thế lực Phật giáo Ấn Quang. Nhưng ông Kỳ không sợ. Vì ông Kỳ bị Quân Đội đẩy ra làm Thủ Tướng. Tuy là “Buddha Child” (Con Phật) nhưng ông không mắc nợ Phật Giáo, nhất là Phật Giáo Ấn Quang. Với tư cách Thủ Tướng, ông Kỳ cho người đi mời các nhà sư “tranh đấu” vào tư dinh trong Tân Sơn Nhất để nghe quyết định của ông. Đợi các tu sĩ yên vị xong, ông nói: “Về chính trị, tôi không bằng cố Tổng thống Ngô Đình Diệm. Nhưng về sự can đảm, tôi hơn Tổng thống Diệm. Tôi sẽ ra tay giết quý vị trước khi quý vị có thể giết tôi như giết ông Diệm. Thượng tọa Tâm Châu ngồi bên cạnh Tướng Kỳ lên tiếng: “Chúng ta đều là con Phật. Tôi đề nghị Thiếu tướng đừng nặng lời, sinh ra khẩu nghiệp không tốt”. Tướng Kỳ đáp trả ngay: “Tôi mới thực sự là con Phật. Các vị chỉ là đầy tớ của Phật”. Tướng Kỳ xác nhận một lần nữa: “Quý vị đừng hòng giết được tôi. Nếu quý vị không chịu trở về Chùa tu tập, cứ tiếp tục gây rối loạn, tôi sẽ trừng trị thẳng tay. Tôi nói thật, chứ không phải đe dọa đâu!”.

Quả nhiên, mấy ông sư cũng sợ ông Tướng Cao Bồi làm ẩu. Kể từ cuộc họp hôm đó, Sài Gòn không còn có cuộc biểu tình xuống đường của Phật giáo Ấn Quang như trước.

2/ Ông Âu Trường Thanh, Ủy viên Kinh tế, vào căn cứ Tân Sơn Nhất báo cáo mấy xì thẩu Ba Tàu trong Chợ Lớn đầu cơ tích trữ gạo, khiến giá gạo tăng lên vùn vụt. Tướng Kỳ cho người gọi mấy xì thẩu Ba Tàu vào tư dinh trong Tân Sơn Nhất trình diện. Các xì thẩu Ba Tàu tỏ ra coi thường ông Tướng trẻ. Họ ăn mặc nhếch nhác, chân mang giép lẹt xẹt. Tướng Kỳ bắt họ ngồi trong phòng đợi chừng một giờ đồng hồ, không mở máy lạnh, các xì thẩu người nào người nấy toát mồ hôi vì cái nóng của Sài Gòn giống như lò lửa. Khi Tướng Kỳ bước vào phòng, các xì thẩu Ba Tàu vẫn ngồi nguyên, không thèm đứng dậy. Ông Kỳ nghiêm sắc mặt, đảo mắt nhìn quanh một vòng, rồi ra lệnh sĩ quan tùy viên mang vào giấy bút và cái hộp.  Ông bảo các xì thẩu ghi tên lên giấy, xếp làm bốn và bỏ vào hộp. Xong xuôi, ông cho tay vào hộp lấy ra một tờ giấy thứ nhất xướng danh từ người, đến tờ giấy cuối cùng. Người sĩ quan tùy viên ghi tên từng người một, thành danh sách, ông tuyên bố: “ Sau cuộc trình diện của quý vị với tôi hôm nay, tôi ra lệnh các ông phải mở kho gạo ra bán cho dân chúng theo giá trước kia. Nếu người nào không tuân lệnh, tôi sẽ đưa ra pháp trường cát lãnh án tử hình. Tôi không đùa với các ông.

Người ta cho rằng lối giải quyết vấn để của ông Kỳ là kiểu “cao bồi”. Nhưng đừng quên nước Việt Nam đang có chiến tranh với cộng sản chỉ có Tướng Kỳ mới dám sử dụng. Nhưng thời buổi chiến tranh, nếu không sử dụng theo kiểu đó, thì làm sao điều khiển được đất nước có bọn gian thương coi thường pháp luật?

3/  Giám đốc ngành xuất nhập cảng Tạ Vinh bị kết tội đầu cơ tích trữ, thao túng thị trường. Tòa Án Quân sự tuyên bố tử hình. Hội Tam Hoàng của Ba Tàu trong Chợ Lớn dùng tiền mua chuộc ông Thủ tướng trẻ không xong. Vợ Tạ Vinh nhờ Lý Long Thân đưa vào Tân Sơn Nhất, bỏ ra 250 triệu tiền Việt Nam để xin tha tội cho chồng. Tướng Kỳ bảo: “Bà hãy mang tiền về để nuôi con, dạy dỗ chúng nó làm ăn lương thiện”. Ba Tàu còn vận động Chính phủ Đài Loan của Tổng thống Tưởng Giới Thạch can thiệp cũng không xong. Một Tiểu đoàn Nhảy Dù được điều động tới pháp trường để đề phòng xì thẩu Ba Tàu xúi giục dân Tàu Chợ Lớn gây bạo loạn. Có tin đồn thất thiệt loan ra: “Tạ Vinh không bị xử tử. Chính quyền thay một tên tù khác để xử tử hình”. Mục đích của tin đồn thất thiệt đò nhằm đổ tội Tướng Kỳ ăn tiền của gia đình phạm nhân, nhưng ra cái điều thanh liêm, trong sạch!

Mời quý bạn đọc mở cái Video Clip sau đây ra xem https://youtu.be/wFEy6FS1lHM.  (Dù cái Clip do Việt Cộng thực hiện, nhưng rất đúng với những gì đã xảy ra).

4/ Đại tá Nguyễn Chánh Thi là con cưng của Tổng thống Ngô Đình Diệm, được trao chức Tư lệnh Chiến đoàn Nhảy Dù, một đơn vị thuộc hạng thiện chiến nhất Việt Nam Cộng Hòa. Năm 1960, ông Thi theo Trần Đình Lan, Vương văn Đông làm cuộc đảo chánh, lật đổ ông Diệm. Cuộc đảo chánh thất bại, ông Thi được Đại úy Phan Phụng Tiên lái máy bay sang Kampuchia tị nạn. Ông Thi không có khả năng tìm kế sinh nhai, sống nhờ vào tiền của phi công phản loạn Nguyễn văn Cử đi dạy Pháp văn. Về sau, có một cô gái tới phục dịch ông vì thương một người già neo đơn tội nghiệp! Sau đó, cô gái có lòng từ tâm giúp đỡ người già, giới thiệu một ông cậu tên Sáu (giả) đến làm bầu bạn với ông, để ông dỡ buồn chán. Sau cuộc đảo chánh 1963, Đại tá Nguyễn Chánh Thi hồi hương, mang theo ông Sáu về làm quản gia. Một người phản chế độ, về nước được thăng cấp Thiếu tướng.

Trong Đại Hội ngày 19 tháng 6 năm 1965, Hội đồng Quân nhân Cách Mạng chọn người làm Thủ tướng. Thiếu Tướng Kỳ đề cử Tướng Thi, nhưng ông nhất định không chấp nhận. Tới khi thấy Tướng Kỳ làm Thủ tướng một cách dễ dàng, Tướng Thi bèn trải lòng tham vọng với thuộc cấp: “thằng Kỳ làm Thủ Tướng được, thì tau cũng làm Thủ Tướng được và tau sẽ làm hay hơn nó”. Trí Quang nghe được câu tâm sự đó, bèn lợi dụng lợi dụng thời cơ, hiến kế để lật đổ Nguyễn Cao Kỳ.

Trong chuyến kinh lý Vùng I Chiến Thuật, Tướng Kỳ nhận thấy Tướng Thi tỏ thái độ coi thường Tướng Kỳ, khi Tướng Thi cử một nhân viên cấp thấp báo cáo tình hình chính trị và quân sự tại địa phương thay vì Tướng Thi phải đích thân đứng ra thuyết trình với Thủ tướng. Khi lên máy bay trở về Sài Gòn, Tướng Kỳ nhìn qua cửa sổ máy bay, thấy Tướng Thi đưa tay lên cao “high five” với một sĩ quan khác, một cử chỉ chứng tỏ với thuộc cấp “ tau chẳng coi lão Kỳ ra gì. Tướng Kỳ dùng điện thoại trên phi cơ gọi cho Tướng Nguyễn Hữu Có – đương kim Ủy viên (Bộ trưởng Quốc Phòng – làm lệnh cách chức Tư Lệnh của Tướng Nguyễn Chánh Thi. Lập tức, Trí Quang tập hợp sư sãi biểu tình phản đối sự độc tài của Nguyễn Cao Kỳ và yêu cầu Nguyễn Cao Kỳ phải phục hồi chức vị Tư Lệnh cho Tướng Nguyễn Chánh Thi. Thế là cuộc Biến Động Miền Trung nổ ra. Luận điệu của Trí Quang tuyên truyền trong dân chúng là: Chính quyền Quân nhân của Thiệu Kỳ là bất hợp pháp, vì không do dân bầu để coi cuộc đấu tranh của Phật giáo là ví lý tưởng Dân Chủ – Tự Do . Đó là luận điệu mị dân, rất được quần chúng và một số quân nhân tin theo. Làm sao có thể bầu cử khi đang đánh nhau với quân xâm lược và bọn Việt Cộng đội lốt Phật giáo làm nội tuyến?

Tướng Kỳ cử Tướng Nguyễn văn Chuân – người Huế – ra Huế dẹp loạn, nhưng thất bại.

Tướng Kỳ cử Tướng  Huỳnh văn Cao – người Huế – ra Huế dẹp loạn, rồi cũng thất bại. Tướng Cao viện cớ mình là người có đạo Công Giáo, nếu thẳng tay thì mang tiếng với Phật Giáo!

Tướng Kỳ cử Tướng Tôn thất Đính – cũng người Huế – thì Tướng Đính láu cá, nhảy sang phe Phật giáo Ấn Quang (để đồng hành với dân tộc?) nhằm chống là Chính Quyền Trung Ương.

Cuối cùng Tướng Kỳ phải cùng Tướng Nguyễn Ngọc Loan – Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc gia–   đích thân ra Huế dẹp loạn. Trong cuốn sách Biến Động Miền Trung, tác giả Liên Thành vì lý do “tế nhị”, chỉ đề cao vai trò của Tướng Loan, mà không nhắc đến vai trò chỉ huy cuộc dẹp loạn là Tướng Kỳ. Tất cả những trở ngại không thể giải quyết, Tướng Loan đều xin chỉ thị của Tướng Kỳ.

Chẳng hạn, vị trụ trì Chùa Phổ Đà yêu cầu đạo hữu “tử thủ”, nhất định không thi hành lệnh của Quân Đội phải giải tán cuộc tập họp bất hợp pháp. Tướng Loan phải gọi điện cho Tướng Kỳ để giải quyết thế nào. Tướng Kỳ bảo Tướng Loan cúp điện, cúp nước thì với cái khí hậu khắc nghiệt của Đà Nẵng vào mùa Hè mà không có điện nước thì không ai có thể chịu đựng cái nóng và sự mất vệ sinh do không nước. Ngoài ra, Tướng Kỳ còn ra lệnh cho Đại tá Dương Thiệu Hùng – Tư lệnh Không Đoàn 41 – đưa phi tuần Khu trục bốn chiếc Skyraider bay thấp trên mái Chùa để uy hiếp tinh thần. Không bao lâu sau, các đạo hữu tự động giải tán. Tướng Kỳ đã có quyết định sáng suốt, nên sự đổ máu đã không xảy ra.

Tướng Lewis William Walt – Tư lệnh Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đóng ở căn cứ Chu Lai – cho phi cơ Phantom F-4C lên uy hiếp phi cơ Không Quân Việt Nam. Tướng Kỳ dùng tần số “Guard” của phương tiện vô yêu cầu  phi cơ Hoa Kỳ phải trở về căn cứ, nếu bất tuân lệnh, pháo binh Việt Nam sẽ biến Chu Lai thành bình địa. Thế là phi cơ Hoa Kỳ trở về đáp, vì sợ Tướng Kỳ là người dám nói, dám làm, thì không có phi trường để đáp.

Sau khi cuộc biến loạn chấm dứt, Tướng Tư lệnh TQLC Lewis Walt vào căn cứ Không Quân Đà Nẵng xin gặp Tướng Kỳ. Tướng Walt bước vào phòng làm việc của Đại tá Dương Thiệu Hùng (nơi Tướng Kỳ tạm dùng đại bản doanh), đứng nghiêm chào đúng với lễ nghi quân cách. Tướng Kỳ không nhìn lên, vẫn cúi mặt đọc báo cáo tình hình. Chừng 10 phút sau ông mới ngẩng mặt lên và hỏi Tướng Walt vào gặp ông có chuyện gì. Tướng Walt lễ phép thưa:

 –   Tôi vào gặp ông Thủ tướng để hỏi tại sao ông đưa quân đến vùng trách nhiệm của tôi, mà không cho tôi hay biết?

Tướng Kỳ hỏi:

 –  Ông Tướng đã phục vụ bao nhiêu năm trong Quân Đội? Trung tướng có hiểu hệ thống quân giai là gì không? Tôi đang là người lãnh đạo đất nước này. Tôi có phải xin phép Trung tướng để điều hành đất nước này không? Trung tướng có biết rằng chỉ cần một cú điện thoại của tôi gọi Tổng thống Lyndon B. Johnson, thì Trung tướng phải rời chức vụ trong vòng 24 tiếng đồng hồ không?

Trung tướng Walt nghe xong câu hỏi của Tướng Kỳ, vội vàng đưa tay lên chào kính và “đàng sau” quay!

Sau năm 1975, biết Tướng Kỳ định cư tại California, Tướng Walt đến nhà Tướng Kỳ thăm viếng và thổ lộ: “Tôi rất biết ơn Ngài Phó Tổng thống, vì Ngài đã dạy cho tôi một bài học về lãnh đạo và chỉ huy. Chúng tôi rất tiếc là Chính phủ Hoa Kỳ đã bỏ rơi một dân tộc dũng cảm, anh hùng”.

Đại tá Dương Thiệu Hùng – Tư Lệnh Không Đoàn 41 ở Đà Nẵng – hiện diện trong cuộc gặp gỡ giữa Tướng Walt và Tướng Kỳ, đã vô cùng hãnh diện cấp chỉ huy của mình, đã làm cho ông Tướng Mỹ cảm phục dân tộc Việt Nam.

Tôi thuật lại mẩu chuyện này để bạn đọc biết một nhà lãnh đạo Việt Nam lúc bấy giờ mới 36 tuổi, người nhỏ thó, đối diện với một ông Tướng Thủy Quân Lục Chiến cao hơn 6 feet, nhưng không hề có một chút mặc cảm về thân hình nhỏ bé của mình. Với giọng nói uy nghiêm, dõng dạc và thông minh của Tướng Kỳ với ông Tướng Mỹ, tôi tin rằng không một nhà lãnh đạo chính trị nào, một vị Tướng nào của Việt Nam Cộng Hòa có thể làm cho Trung tướng Walt bày tỏ niềm cảm phục để nhìn nhận mình đã học được một bài học về lãnh đạo, chỉ huy. Đại tá Dương Thiệu Hùng – Tư Lệnh Không Đoàn 41 ở Đà Nẵng cũng như Đại tá Lưu Kim Cương, hiện diện trong phòng họp Hành Quân của Không Đoàn 41, không ngớt bày tỏ sự ngưỡng mộ cung cách ứng xử của Tướng Kỳ đối với Đồng Minh.

Tôi tin rằng, chẳng phải riêng tôi, mà bất cứ quân nhân nào khác, đều muốn mình được phục vụ dưới quyền của một vị chỉ huy thông minh, có bản lĩnh và không có mặc cảm đối với Đồng Minh. Một số anh em Không Quân chưa được dịp tiếp xúc với Tướng Kỳ, khi đọc báo chí của đối phương gièm pha, thì cũng về hùa với dư luận. Tướng Nguyễn Cao Kỳ là vị Tư Lệnh Không Quân duy nhất dám gọi điện thoại cho Trung tướng Đỗ Cao Trí – Tư Lệnh Vùng II Chiến Thuật – để yêu cầu thả Đại Úy Trương Dzù ra khỏi quân lao ngay lập tức. Sở dĩ, Đại Úy Trương thường được anh em Không Quận gọi ông bằng ngoại danh “Trương Dzù”, vì ông nguyên là sĩ quan Nhảy Dzù được chuyển sang Không Quân.

Xin nói một chút về điểm này. Từ khi Tướng Kỳ làm Tư Lệnh KQ, thì mới được các ông Tướng Bộ Binh bên Tổng Tham Mưu nể trọng. Sự thật này chỉ có những Không Quân thâm niên cỡ tuổi tôi trở lên, thì mới biết mà thôi. Mời quý vị độc giả kiên nhẫn theo dõi những bài kế tiếp của tôi để biết về một giai đoạn lịch sử đã qua, mà không một nhà viết sử nào đề cập tới.

Bằng Phong Đặng văn Âu, ngày 25 tháng 6 năm 2022.

10200n Bolsa Avenue, Westminster, California 92683.

Email Address: bangphongdva033@gmail.com

Telephone: 714 – 276 - 5600