Hành tung bí ẩn của
một nhà sư:
Thượng tọa Thích
Minh Châu,
Viện trưởng Viện Đại
Học Vạn Hạnh.
Sư Gián Điệp và Sư
Công An đã rất đắc lực giúp đảng Cộng Sản phá nát Phật giáo và đất nước Việt
Nam để đưa đến thảm họa mất nước như ngày hôm nay.
Bài 1:
Hòa Thượng Thích Minh Châu, một nhà tu
có hành tung bí ẩn và gây nhiều tranh luận, đã qua đời ngày 01/09/2012 tại
Sài-Gòn, hưởng thọ 94 tuổi.
Mặc dầu ông là người nổi tiếng, năm
1964 đã được GHPGVNTN (Giáo Hội Phật Giáo Việt-Nam Thống Nhất) can thiệp bằng
mọi giá để buộc Tướng Nguyễn-Khánh phải cho ông từ Ấn-Độ về Sài-Gòn làm Viện
Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh và ông đã từng giữ chức vụ Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ
Giáo Dục trong GHPGAQ (Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang) cho đến sau năm 1975, các
cơ quan truyền thông Việt ngữ ở hãi ngoại chỉ loan tin việc ông qua đời dựa
theo các bản tin của báo nhà nước ở trong nước, còn các tổ chức thuộc GHPGAQ ở
hải ngoại gần như im lặng.
Trong khi đó, hầu
hết các cơ quan truyền thông nhà nước, kể cả Thông Tấn Xã Việt-Nam, đã loan tin
rộng rãi và viết khá nhiều về ông.
Trang nhà Đạo Phật Ngày Nay ở Sài-Gòn
đã sưu tầm và viết về tiểu sử của ông khá đầy đủ, nhưng không nói đến những bí
ẩn đã gây nhiều tranh luận về chính bản thân ông cũng như những tổ chức đã xử
dụng ông.
Dưạ trên tài liệu
của tình báo Pháp và VNCH (Việt-Nam Cộng-Hòa) mà chúng tôi đã đọc được trước
năm 1975, khi xuất bản cuốn “Những bí ẩn đàng sau những cuộc thánh chiến tại
Việt-Nam” vào năm 1994, chúng tôi đã tiết lộ nhiều chi tiết bí ẩn về cuộc đời
và những hoạt động của ông, khiến nhiều người ngạc nhiên.
Người ta thường nói “Nghĩa tử là nghĩa
tận”, nhưng Thích Minh Châu vừa là một nhân vật tôn giáo vừa là một nhân vật
chính trị, những gì ông đã làm hay để lại, đã và đang gây khá nhiều hậu quả
tang thương cho Phật Giáo và cho đất nước, nên chúng tôi thấy cần phải đưa ra
ánh sáng những sự thật lịch sử để rút kinh nghiệm và tránh đi vào vết xe cũ.
Vài nét về quê quán:
Ở Việt-Nam, ít ai biết đến hành tung
của Hòa Thượng Thích Minh Châu, Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, Viện trưởng
Học Viện PGVN (Phật giáo Việt-Nam)…. vì ông giấu rất kỹ. Một người ở
cùng làng với ông và rất thân với gia đình ông khi còn nhỏ, đã nhận ra ông khi
ông về làm Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, đã tìm đến thăm ông và hỏi han về
gia đình của ông ở miền Bắc, nhưng ông chối dài và nói anh ta đã nhận
lầm. Đến khi anh ta nhắc tới tên đứa con trai của ông và cho biết
chính anh là người đã dạy đứa con đó, ông mới chịu xuống giọng.
Hòa Thượng Thích Minh Châu có tên thật
là Đinh-Văn-Nam, sinh ngày 20/10/1918. Tài liệu VNCH ghi ông sinh ở
làng Kim Khê, xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Nhưng các
cơ quan truyền thông trong nước nói ông sinh ở Quảng Nam. Trang nhà
Đạo Phật Ngày Nay nói rõ hơn ông sinh tại làng Kim Thành ở Quảng Nam, nguyên
quán ở làng Kim Khê, xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ
An. Chúng tôi biết ở Quảng Nam có làng Kim Thành thuộc huyện Điện
Bàn. Như vậy, có thể cụ Đinh-Văn-Chấp đã sinh ra Đinh-Văn-Nam khi
đến làm quan ở Điện Bàn.
Gia đình Hòa Thượng Thích Minh Châu
thuộc dòng dõi khoa bảng. Thân phụ ông là cụ Đinh-Văn-Chấp, Tiến sĩ
Hán học của nhà Nguyễn, thân mẫu là bà Lê-Thị-Đạt. Ông là con thứ ba
của gia đình có 8 con, theo thứ tự như sau: Đinh-Văn-Kinh là con trưởng, đến
Đinh-Văn-Quang, Đinh-Văn-Nam (tức Hòa Thượng Minh Châu), Đinh-Văn-Linh,
Đinh-Văn-Phong, Đinh-Thị-Kim-Hoài, Đinh-Thị-Kim-Thai và Đinh-Thị-Khang.
Báo Đạo Phật Ngày Nay cho biết gia
đình ông có đến 11 anh em và ông là con thứ tư.. Như chúng ta đã
biết, những người giàu có thời đó thường có nhiều vợ. Cụ
Đinh-Văn-Chấp cũng có nhiều vợ thứ. Trước khi cưới vợ chánh là bà
Lê-Thị-Đạt (mẹ của Thích Minh Châu), ông đã cưới một người vợ thứ rồi, vì thế
anh chị em nhà này rất đông. Nếu tính cả con vợ thứ, con số 11 có lẽ
cũng đúng.
Đại đăng khoa và tiểu
đăng khoa:
Anh chị em gia đình Thích Minh Châu
rất thông minh, được học cả Hán học lẫn Tây học. Năm 1940, khi 22
tuổi, Đinh-Văn-Nam đậu bằng Tú tài toàn phần, tại trường Khải Định, Huế (nay là
trường Quốc Học).
Người Việt ngày xưa theo tục lệ của
Trung-Hoa, Đại đăng khoa rồi Tiểu đăng khoa. Đại đăng khoa là tiệc
mừng tân khoa thi đỗ về làng, còn Tiểu đăng khoa là tiệc cưới mừng tân khoa
thành lập gia thất. Cũng trong năm 1940, Đinh-Văn-Nam đã lập gia
đình với cô Lê-Thị-Bé, con của một gia đình khoa bảng khác ở cùng làng là cụ
Lê-Văn-Miến. Cụ Miến là một người vừa đậu Tây học vừa thông Hán học
nên làm giáo sư Hán văn và Pháp văn, sau vào dạy ở Quốc Tử Giám (đại học của
triều đình) ở Huế.
Đinh-Văn-Nam ở với vợ là Lê-Thị-Bé
được 3 năm, sinh được hai người con, một trai và một gái. Người con
trai đầu lòng tên là Đinh-Văn-Sương.. Người con gái tên là
Đinh-Thị-Phương (chúng tôi không nhớ tên lót chính xác).
Năm 1943, Đinh-Văn-Nam trở lại Huế và
xin làm thừa phái (Thư ký) cho tòa Khâm Sứ của Pháp ở Huế. Từ đó,
ông rất ít khi về Nghệ An thăm vợ con. Vợ ông phải làm việc rất vất
vả để nuôi con.
Khi thời thế đổi thay:
Theo hồ sơ của mật thám Pháp để lại,
Hoà Thượng Thích Trí Độ, Giám Đốc trường An Nam Phật Học ở Huế gia nhập Đảng
Cộng Sản năm 1941, còn Đinh-Văn-Nam và Võ-Đình-Cường năm 1943. Như
vậy Đinh-Văn-Nam đã vào Đảng Cộng Sản sau khi bỏ Nghệ An trở lại Huế.
Sau khi Việt Minh cướp chính quyền vào
tháng 8 năm 1945, cụ Đinh-Văn-Chấp, thân phụ của Đinh-Văn-Nam, đã tản cư từ Huế
về Nghệ An và được Việt Minh mời làm Chủ Tịch Ban Nghiên Cứu Chủ Nghĩa
Mác-Lê. Sau khi cụ Đặng-Hướng, Chủ Tịch Mặt Trận Liên Việt tỉnh Nghệ
An lên làm Chủ Tịch Mặt Trận Liên Việt Liên Khu IV, cụ Đinh-Văn-Chấp thay cụ
Đặng-Hướng làm Chủ Tịch Mặt Trận Liên Việt tỉnh Nghệ An. Còn cụ
Lê-Văn-Miến, nhạc phụ của Đinh-Văn-Nam, là người liêm khiết nên rất
nghèo. Khi cụ trở về quê ở Kim Khê thì không có nơi cư
ngụ. Các học trò của cụ phải góp mỗi người 5$ làm cho cụ một căn nhà
lá nhỏ ở tạm. Vốn là thầy giáo, không quen các nghề bằng tay chân và
nhất là với sĩ diện của một nhà Nho, cụ không có kế gì để sinh nhai. Nghe
nói về sau cụ bị chết đói.
Hai huyện Nam Đàn và Nghi Lộc là nơi
Đảng Cộng Sản Đông Dương lập các cơ sở đầu tiên của họ. Gia đình cụ
Nguyễn-Sinh-Sắc (cha của Nguyễn-Sinh-Cung, tức Hồ-Chí-Minh) ở xã Kim Liên,
huyện Nam Đàn, nên Hồ-Chí-Minh quen biết rất nhiều trong vùng
này. Ông cho người đi móc nối các sĩ phu, thuyết phục họ tham gia
Cách Mạng. Trong hai huyện Nghi Lộc và Nam Đàn, không ai lạ gì gia
đình của Hồ-Chí-Minh. Anh của Hồ-Chí-Minh là Nguyễn-Sinh-Khiêm, một
người mắc bệnh tâm thần, không có nghề nghiệp, thường lui tới các gia đình của
những người quen biết ở hai huyện Nam Đàn và Nghi Lộc để xin ăn. Chị của
Hồ-Chí-Minh là Nguyễn-Thị-Thanh, trước có làm liên lạc cho cụ Phan-Bội-Châu,
sau bị mật thám Pháp theo dõi, phải trở về làng sống trong một túp lều tranh
nhỏ bé và xiêu vẹo, rất cơ cực. Sĩ phu trong hai huyện Nam Đàn và
Nghi Lộc gia nhập Đảng Cộng Sản Đông Dương khá nhiều. Đinh-Văn-Nam
cũng ở trong trường hợp đó.
Trần-Điền, người ở cùng làng với Thích
Minh Châu, một đảng viên cao cấp của Việt Cộng, đã xin cuới cô
Đinh-Thị-Kim-Hoài, em của Thích Minh Châu, nhưng bị từ chối. Tuy
không được làm rể nhà họ Đinh, Trần-Điền vẫn giữ liên lạc tốt đẹp với gia đình
Thích Minh Châu. Trần-Điền đã làm Đại Sứ của Hà-Nội tại Nam-Vang,
Cao-Miên, trong thời kỳ Sihanouk chấp chánh. Đây là một đường dây
liên lạc tốt của Thích Minh Châu.
Sau này, cô Đinh-Thị-Kim-Hoài làm vợ
bé của Thiếu Tướng Nguyễn-Sơn khi Tướng này về làm Chủ Tịch Ủy Ban Kháng Chiến
Liên Khu IV, một Liên Khu vững vàng nhất của Việt Cộng thời đó.
Nguyễn-Sơn là một
Tướng tài, đẹp trai và lịch thiệp, nên đi đến đâu đều được các cô các bà bám
chặt. Ông ở nơi nào ít lâu là có vợ ở nơi đó. Cuộc đời
của ông có khoảng 15 bà vợ. Khi ông vào Nghệ An, cô
Đinh-Thị-Kim-Hoài rất thích ông. Ít lâu sau, hai người lấy nhau, mặc
dầu lúc đó ông đã có khoảng 13 hay 14 bà vợ rồi.
Đinh-Văn-Linh, em của Thích Minh Châu,
là một Đại Tá trong bộ đội Việt Cộng, từng làm Đại Sứ của Hà-Nội ở Bắc Kinh và
sau về làm Chủ nhiệm nhật báo Quân Đội Nhân Dân của Việt Cộng. Khi
Dương-Văn-Minh tuyên bố đầu hàng, Đinh-Văn-Linh là người đầu tiên được Việt
Cộng đưa vào Sài-Gòn để tiếp thu.
Một người ở làng Kim Khê cho biết
Thích Minh Châu đã gia nhập Mặt Trận Việt Minh vào đầu thập niên 1940, khi Mặt
Trận này mới thành lập. Nhóm của ông thường họp tại chùa Cẩm Linh,
Diệc Cổ Tự hay trụ sở của Hội Nghiên Cứu Phật Học Trung Kỳ ở trong nội thành
của thành phố Vinh.
Một tăng sĩ Phật Giáo đã công khai
phản đối việc dùng chùa để làm nơi hội họp bí mật của nhóm nói trên là Hòa
Thượng Thích Tuệ Chiếu. Hòa Thượng Thích Tuệ Chiếu tên thật là
Trương-Thế-Giám, trụ trì ở chùa Phước Hòa, Sầm Sơn, Thanh Hóa, là người thông
thạo cả Hán học lẫn Tây học. Ông biết chuyện một số người đã dùng
chùa và trụ sở của Phật Giáo hội họp làm chính trị, nên lên tiếng phản
đối. Năm 1954, khi Hiệp Định Genève ký kết, ông đã liên lạc với các
làng công giáo chung quanh để tìm cách di cư vào Nam nhưng đi không
lọt. Trong cuộc đấu tố năm 1957, ông bị chôn sống.húng tôi ghi lại
những chi tiết này để giúp đọc giả hiểu được tại sao Đinh-Văn-Nam đã gia nhập
Đảng Cộng Sản và trở thành một đảng viên trung kiên của đảng này.
Trong số tới, chúng tôi sẽ nói về
những gay cấn trong việc đưa Thượng Tọa Thích Minh Châu về làm Viện Trưởng Viện
Đại Học và chuyện gặp gỡ vợ con của Thích Minh Châu sau 30/04/1975.
Bài số 2:
Trong bài trước, chúng tôi đã trình
bày qua lý lịch của Hoà Thượng Thích Minh Châu, Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn
Hạnh, với nhiều bí ẩn về gia tộc, vợ con và con đường hoạt động chính trị của
ông. Chúng tôi sẽ nói rõ hơn con đường dẫn ông đến với Đảng Cộng
Sản, chuyện ông xuất gia để phục vụ Đảng, áp lực đưa ông về ngồi chổm chệ giữa
Sài-Gòn “Tiền đồn chống cộng ở Đông-Nam-Á”, hoạt động của Việt Cộng trong Viện
Đại Học Vạn Hạnh, sự lộ diện của ông ngày 30/04/1975, chuyện ông gặp lại vợ
con, chuyện ông đưa GHPGVNTN vào cửa tử và “Những ngày vinh quang” của ông. Đây
là những chuyện rất ly kỳ.
Câu hỏi thứ nhất:
Một câu hỏi được đặt ra là Pháp biết
Hoà Thượng Thích Trí Độ, Giám Đốc trường An Nam Phật Học, đã vào Đảng Cộng Sản
năm 1941, Đinh-Văn-Nam (tức Thích Minh Châu) và Võ-Đình-Cường năm 1943, tại sao
họ không bắt?
Như chúng tôi đã chứng minh trong cuốn
“Những bí ẩn đàng sau những cuộc thánh chiến tại Việt-Nam” xuất bản năm 1994,
vào thập niên 1930, Toàn Quyền Pasquier đã đưa ra chủ trương thành lập các
phong trào thể thao và “Phong Trào Chấn Hưng Phật Giáo” để vô hiệu hóa các cuộc
nổi dậy chống Pháp. Nhiều viên chức cao cấp đã được Pháp giao cho
thực hiện công tác này như Trần-Nguyên-Chấn ở miền Nam, Lê-Đình-Thám ở miền
Trung và Lê-Dư ở miền Bắc. Ngoài ba nhân vật chính này, còn rất
nhiều viên chức khác tham gia như Trần-Trọng-Kim, Bùi-Kỷ, Nguyễn-Đỗ-Mục,
Dương-Bá-Trạc.... và nhiều nhân vật Phật Giáo đã công nhận đây là thời kỳ cực
thịnh của Phật Giáo Việt-Nam. Biết rõ chủ trương của Pháp, Đảng Cộng
Sản Đông Dương cũng dựa vào Phật Giáo để xây dựng các cơ sở Đảng.
Sở dĩ mật thám Pháp biết Hòa Thượng
Trí Độ, Đinh-Văn-Nam và Võ-Đình-Cường vào Đảng Cộng Sản nhưng không bắt vì lúc
đó Pháp muốn dùng lực lượng của Cộng Sản để chống Nhật. Nhiều đảng
viên cao cấp của Cộng Sản bị bắt đã được thả ra.
Chúng tôi xin nhắc lại rằng năm 1944,
Hoa-Kỳ đã phối hợp với Pháp và chính phủ Tưởng-Giới-Thạch, thành lập một toán
do Hồ-Chí-Minh lãnh đạo, đưa từ Liễu Châu về Pác Bó. Toán này được
huấn luyện và trang bị vũ khí để chống Nhật. Nhờ vậy, khi Nhật đầu
hàng Đồng Minh, Việt Minh đã cướp được chính quyền ở Hà-Nội vào tháng 08 năm
1945.
Câu hỏi thứ hai:
Bác sĩ Lê-Đình-Thám, Hội Trưởng Hội An
Nam Phật Học, người dẫn dắt Đinh-Văn-Nam và Võ-Đình-Cường, đã vào Đảng năm nào
mà sau khi Việt Minh cướp chính quyền, ông được cử làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành
Chánh Kháng Chiến Miền Nam Trung Bộ ở Liên Khu V từ 1946 đến 1949?
Quả thật, Bác sĩ Lê-Đình-Thám đã giấu
tông tích của ông rất kỷ, ông lại là người được Pháp giao nhiệm vụ “Phật giáo
hóa” tại miền Trung, nên mật thám Pháp không nghi ngờ gì về ông. Dĩ
nhiên, ông phải là đảng viên cao cấp mới được Đảng Cộng Sản cho giữ một chức vụ
quan trọng như vậy. Lần theo những bước chân của ông, chúng ta có
thể tìm ra con đường Thích Minh Châu đã gia nhập vào Đảng Cộng Sản.
Con đường Thích Minh Châu đi:
Bác sĩ Lê-Đình-Thám sinh năm 1897 tại
Quảng-Nam, tốt nghiệp Trường Cao Đẳng Y Khoa Đông Dương Hà-Nội năm
1916. Năm 1932, ông thành lập Hội An Nam Phật Học tại Huế, trụ sở
đặt tại chùa Trúc Lâm.. Bên ngoài ông thuyết giảng và truyền bá Phật Giáo,
nhưng bên trong hoạt động cho Cộng Sản.
Đinh-Văn-Nam (tức Thích Minh Châu) và
Võ-Đình-Cường là hai “đệ tử ruột” của Bác sĩ Lê-Đình-Thám, nên thầy đi đâu, trò
theo đó. Trang nhà Đạo Phật Ngày Nay của báo trong nước đã nói rất
rõ:
Phong trào học Phật do Bác sĩ
Lê-Đình-Thám tổ chức có "Nhiều trí thức yêu nước" tham gia
như: Ngô-Điền, Phạm-Hữu-Bình, Võ-Đình-Cường…. Đinh-Văn-Nam và em là
Đinh-Văn-Linh đến với phong trào học Phật từ năm 1936. Đinh-Văn-Nam
đã đảm nhận chức vụ Chánh Thư Ký của Hội An Nam Phật Học. Kể từ đó,
ông "Gắn liền với Hội và là hạt nhân nòng cốt phát động phong trào yêu
nước chống Pháp".
Năm 1940, Bác sĩ Thám cho thành lập
Đoàn Thanh Niên Phật Học Đức Dục do Phạm-Hữu-Bình làm Trưởng Đoàn, Đinh-Văn-Nam
(tức Thích Minh Châu) làm Phó Đoàn, Ngô-Điền làm thư ký. Trong các
nhân viên của Đoàn, người ta thấy có Đinh-Văn-Linh và Võ-Đình-Cường.
Năm 1944, tại đồi Quảng Tế ở Huế, Bác
sĩ Lê-Đình-Thám thành lập Gia Đình Phật Hóa Phổ. Người ta thấy
Đinh-Văn-Nam và Võ-Đình-Cường trong đại hội này. Tổ chức này sau
được biến thành Gia Đình Phật Tử do Võ-Đình-Cường lèo lái.
Tháng 10 năm 1945,
Pháp trở lại Đông Dương, Việt Minh hô hào tiêu thổ kháng chiến và tản
cư. Các tăng sĩ và cư sĩ Phật Giáo ở Huế cũng đi tản
cư. Ngày 07/02/1947, Pháp chiếm lại Huế, đa số dân chúng, kể cả các
tăng sĩ và cư sĩ Phật Giáo đều hồi cư. Một số tiếp tục hoạt động cho
Việt Minh bị Pháp bắt, nhưng nhờ bà Từ-Cung, mẹ của Hoàng Đế Bảo-Đại, can thiệp
Pháp đã thả ra, trong đó có Thượng Tọa Thích Đôn Hậu.
Xuất gia năm nào?
Tài liệu của báo nhà nước cho biết
Đinh-Văn-Nam xuất gia năm 1946. Nhưng chúng tôi không
tin.. Lúc đó Huế đang có lệnh tản cư và tiêu thổ kháng chiến, mọi
người đều lo tản cư. Bác sĩ Lê-Đình-Thám đi vào Quảng-Nam và được cử
làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Miền Nam Trung Bộ ở Liên Khu
V. Không lẽ trong tình trạng hổn loạn đó, Đinh-Văn-Nam lại đi vào chùa?
Cuối năm 1947, Hội An Nam Phật Học
hoạt động trở lại và đặt trụ sở tại số 1b đường Nguyễn-Hoàng, Huế. Việt
Minh đã giao cho Võ-Đình-Cường và Phan-Cảnh-Tú vận động tái lập Gia Đình Phật
Hóa Phổ để làm cơ sở hoạt động của Việt Minh. Tổ chức này đã mượn
trụ sở Hội An Nam Phật Học làm nơi sinh hoạt tạm thời. Ngày Chúa Nhật
18/01/1948, Võ-Đình-Cường chính thức làm lễ ra mắt tổ chức Gia Đình Phật Hóa
Phổ mới tại chùa Từ Đàm, người ta thấy có mặt của Đinh-Văn-Nam, Tống-Hồ-Cầm,
Hoàng-Thị-Kim-Cúc, Cao-Chánh-Hựu, Văn-Đình-Hy,..v.v...
Một tài liệu khác cho biết
Đinh-Văn-Nam xuất gia năm 1948. Tin này có vẽ hợp lý hơn, vì năm
1948 các chùa ở Huế mới hoạt động trở lại. Có lẽ Bác sĩ Lê-Đình-Thám
đã phân công cho Võ-Đình-Cường hoạt động trong giới Phật tử, còn Đinh-Văn-Nam
hoạt động trong giới tăng sĩ.
Lúc đó Đinh-Văn-Nam đã 30 tuổi, xin
đầu sư với Hoà Thượng Thích Tịnh Khiết ở chùa Tường Vân. Năm 1949,
Hoà Thượng Tịnh Khiết cho ông thụ giới “Cụ túc” tại giới đàn Hộ Quốc, chùa Bảo
Quốc với pháp danh là Minh Châu. Giới “Cụ túc” là những giới luật mà
hàng Tỳ kheo và Tỳ kheo ni phải thọ trì. Tỳ kheo là tên gọi những
người xuất gia đã thụ giới Cụ túc.
Năm 1952, ông được cho đi Sri-Lanka
học tiếng Pali rồi qua Ấn-Độ học tại đại học Bihar và năm 1961 ông đậu Tiến sĩ
Phật Học. Cùng đi với ông có Nguyễn-Đình-Kỳ. Nguyễn-Đình-Kỳ chỉ lo
tu học về Phật Giáo và đã chết ở Ấn-Độ.
Nếu chuyện chỉ như thế, chẳng ai để ý
làm gì!
Đưa Cộng Sản vào Sài-Gòn:
Câu chuyện đã đổ bể
khi Viện Hoá Đạo của GHPGVNTN đề nghị với chính phủ Nguyễn-Khánh cho ông về làm
Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh của Phật Giáo.
Kinh Phổ Diệu của Đạo Phật nói “Xuất
gia tứ nguyện”. Xuất gia là rời bỏ gia đình, rời bỏ cảnh giới thế
tục để tu tịnh hạnh. Tứ nguyện là bốn nguyện của người xuất gia: (1) Nguyện tế
độ chúng sinh khỏi nguy khốn tai ách. (2) Nguyện trừ hoặc chướng cho chúng sinh. (3) Nguyện đoạn trừ tà kiến giúp chúng
sinh. (4) Nguyện độ chúng sinh khỏi vòng khổ ải.
Nhưng Hòa Thượng Minh Châu xuất gia
không phải để thực hiện những điều kinh Phật dạy, mà thực hiện những điều Đảng
dạy!
Năm 1964, khi GHPGVNTN mới được thành
lập, Viện Hoá Đạo của Giáo Hội này đã viết văn thư xin chính phủ Nguyễn-Khánh
cho Thượng Tọa Thích Minh Châu ở Ấn-Độ được về làm Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn
Hạnh sắp được thành lập. Tướng Nguyễn-Khánh yêu cầu cơ quan an ninh sưu tra lý
lịch.
Cơ quan an ninh đã sưu tra hồ sơ và
tìm thấy Đinh-Văn-Nam và Võ-Đình-Cường đã vào Đảng Cộng Sản năm
1943. Đinh-Văn-Nam có vợ và hai con đang ở miền Bắc.
Cơ quan an ninh liền liên lạc với Tòa
Đại Diện VNCH ở Ấn-Độ và xin cho biết trong thời gian ở Ấn-Độ, Thích Minh Châu
đã sinh hoạt như thế nào.. Toà Đại Diện cho biết trong thời gian ở
Ấn-Độ, Thích Minh Châu đã hoạt động cho Hà-Nội. Tòa Đại Diện đã cung
cấp nhiều bằng chứng về sự kiện này. Chúng tôi chỉ nhớ hai bằng
chứng chính:
- Bằng chứng thứ nhất: Năm
1952, Trung Cộng đã mở Hội Nghị Hòa Bình Châu Á và Thái Bình Dương ở Bắc
Kinh. Đảng Cộng Sản Việt-Nam đã gởi một phái đoàn tới tham
dự. Phái đoàn do Luật sư Nguyễn-Mạnh-Tường làm Trưởng
đoàn. Thích Minh Châu từ Ấn-Độ đã lén qua Bắc Kinh tham gia phái
đoàn. Sau hội nghị, phái đoàn đã đưa ra một bản tuyên bố trong đó có
đoạn như sau: “Nhân dân thế giới đều đồng tình, đòi quân đội ngoại quốc xâm
lược phải rút ra khỏi ba nước Việt-Nam, Cao-Miên, Lào. Ba nước
Việt-Nam, Cao-Miên, Lào độc lập hoàn toàn và thực sự”.
- Bằng chứng
thứ hai: Ngày 10/02/1958 Hồ-Chính-Minh
qua Ấn-Độ vận động thống nhất Việt-Nam, đòi tổng tuyển cử. Công việc
tiếp đón đều do Thích Minh Châu phụ trách. Hà-Nội có cho ông
Nguyễn-Di-Niên đi theo làm thông dịch. Nhưng khi đến Ấn-Độ, Thích
Minh Châu là thông dịch viên chính của Hồ-Chí-Minh. Toà Đại Diện có
gởi về một tấm hình Thích Minh Châu chụp chung với Hồ-Chí-Minh tại Red Fort ở
thủ đô Delhi, trong một phiên họp do Thích Minh Châu tổ chức.....
Tướng Nguyễn-Khánh đã thông báo các tài liệu này cho Viện Hóa Đạo biết và
nói rằng chính phủ rất tiếc không thể cho Thích Minh Châu trở về Việt-Nam được,
vì ông đang hoạt động cho Việt Cộng ở Ấn-Độ.
Vốn tự coi mình là một tổ chức quyền
lực tối cao, sống trên và ngoài luật pháp quốc gia, GHPGVNTN liền gởi cho Tướng
Nguyễn-Khánh một văn thư nói rằng ngoài Thích Minh Châu ra, hiện tại không tăng
sĩ Phật Giáo nào có đủ khả năng làm Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, vậy xin
cứ để cho Thích Minh Châu về, Giáo Hội bảo đảm sẽ không cho Thích Minh Châu
hoạt động cho Việt Cộng nữa.
Thượng Tọa Thích Trí Quang còn đe doạ
rằng nếu Tướng Nguyễn-Khánh không đáp ứng nhu cầu chính đáng của Phật Giáo,
Phật Giáo bị bắt buộc phải hành động. Trong thông báo gởi cho các
viên chức Hoa-Kỳ ở Hoa-Thịnh-Đốn (Washington) ngày 11/05/1964, Đại Sứ Cabot
Lodge đã có nhận xét như sau:
“Đã lật đổ được một chính phủ, ông ta
(Thượng Tọa Thích Trí Quang) nghĩ rằng có thể làm như thế để chống lại Khánh.”
(Having overthown
one government, he may feel like trying again against Khanh.)
[FRUSS 1964 – 1968, Volum I, Vietnam 1964, tr. 304 – 305, Document 147].
Sợ Phật Giáo gây khó khăn, Tướng Khánh
đã phê lên hồ sơ: “Cho về và theo dõi”. Ngày 13/11/1964 Viện Hoá Đạo
của GHPGVNTN đã ban hành Quyết Định số 156-VT/QĐ cử Thượng Tọa Thích Minh Châu
làm Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh!
Bài 3:
Ngày 13/03/1964, GHPGVNTN quyết định
dùng chùa Pháp Hội ở số 702/105 đường Phan-Thanh-Giản, Quận 10, Sài-Gòn, làm
Viện Cao Đẳng Phật Học và cử Thượng Tọa Thích Trí Thủ làm Viện
Trưởng. Đây là cơ sở dự bị để tiến tới thành lập Viện Đại Học Vạn
Hạnh.
Chuyện rắc rối nội bộ:
Lúc đó có ba tăng sĩ có thể được chọn
làm Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, đó là Thượng Tọa Thích Thiên Ân, Thiền
sư Nhất Hạnh và Thượng Toạ Thích Minh Châu. Như vậy không phải Phật
Giáo Việt-Nam lúc đó không có ai có thể làm Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh
ngoài Thích Minh Châu như Viện Hóa Đạo đã nói với Tướng Nguyễn-Khánh.
Chúng tôi đã nói về Thượng Tọa Thích
Minh Châu, ở đây chúng tôi cũng xin nói qua về Thượng Tọa Thiên Ân và Thiền Sư
Thích Nhất Hạnh để đọc giả có thể hiểu tại sao Thích Minh Châu đã được chọn.
1) Vài nét về Thượng Tọa
Thiên Ân: Thích Thiên Ân, thế danh là Đoàn-Văn-An, sinh năm 1925 tại
làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Ông đi tu từ lúc 10
tuổi (1935) và cùng thụ giới Cụ túc năm 1948 cùng một lượt với Thích Minh Châu
ở tổ đình Bảo Quốc do Hòa thượng Tịnh Khiết làm Đường đầu truyền giới. Ông
đi du học Nhật-Bản năm 1954 và đậu Tiến sĩ Văn Chương năm 1960 rồi trở về nước.
Để chuẩn bị cho ông làm Viện Trưởng
một Viện đại học Phật giáo sắp được thành lập, các cao tăng đã khuyến khích ông
“Cần phải trau giồi thêm kinh nghiệm, phương pháp quản lý một đại học Phật giáo
có tầm cỡ quốc tế”, vì thế năm 1961 ông lại xuất dương để tu nghiệp ở Nhật-Bản
và lần này ông tìm học pháp môn Thiền Rinzai (Lâm Tế) chính thống của các thiền
sư Nhật-Bản. Ông đã đạt được sở nguyện. Năm 1963 ông trở
lại Việt-Nam.
2) Tung tích Thiền sư Nhất
Hạnh: Tung tích của Thiền sư Nhất Hạnh cũng bí ẩn như tung tích của
Thượng Tọa Minh Châu, nhưng qua nhiều cuộc sưu tra, chúng tôi biết được Thiền
sư Nhất Hạnh có tên thật là Nguyễn-Đình-Bảo, sinh ngày 11/10/1926 tại làng
Thành Trung, xã Quảng Công, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ là
người gốc Thanh Hóa, mẹ người làng Lệ Lộc, quận Gio Linh, tỉnh Quảng
Trị. Ông là con thứ trong một gia đình 5 con. Ông có
người em là Nguyễn-Đình-An dạy học ở Nha Trang trước năm 1975.
Ông xuất gia năm 1942 lúc 16 tuổi, và
thụ giới Cụ túc tại tổ đình Từ Hiếu với Hòa Thượng Thích Nhất Định. Khi
đặt pháp danh cho các tăng sĩ tu học tại đây, các vị chủ trì thường dùng chữ
“Nhất” để làm chữ đệm. Có lẽ cũng vì thế, Nguyễn-Đình- Bảo đã được
ban cho pháp danh là Thích Nhất Hạnh.
Thích Nhất Hạnh theo học trung học ở
Huế và năm 1956 đã vào Sài-Gòn theo học ở Đại Học Văn Khoa. Ông tốt
nghiệp Cử Nhân Văn Khoa ở Sài-Gòn vào khoảng năm 1959. Năm 1961, ông
được chính phủ Ngô-Đình-Diệm cho đi học về môn Tôn Giáo Đối Chiếu (Comparative
religion) tại Princeton University ở New Jersey, Hoa-Kỳ.
Sau khi chính phủ Ngô-Đình-Diệm bị lật
đổ, tình hình bắt đầu rối loạn, có nhiều sự tranh chấp đã xẩy ra trong nội bộ
Phật Giáo về việc thiết lập và lãnh đạo GHPGVNTN (xem Bạch Thư của Hòa Thượng
Thích Tâm Châu). Để tạo thanh thế cho mình, chống lại phe Bắc và phe Nam,
năm 1964 Thượng Tọa Thích Trí Quang đã đích thân viết cho Thiền sư Nhất Hạnh
một lá thư yêu Thiền sư trở về Việt-Nam gấp để giúp ông trong việc thống nhất
Phật Giáo và vạch một hướng đi cho Phật Giáo Việt-Nam trong giai đoạn tới.
3) Tranh chấp trong nội
bộ: Một câu hỏi được đặt ra là tại miền Nam lúc đó có hai người đã
được huấn luyện để làm Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, đó là Thượng Tọa
Thích Thiên Ân và Thiền sư Nhất Hạnh, tại sao Viện Hóa Đạo không chọn một trong
hai người này mà phải đòi cho được Thượng Tọa Minh Châu, mặc dầu biết rõ ông
đang hoạt động cho Cộng Sản ở Ấn Độ?
Như đã nói trên, Thượng Tọa Thiên Ân
và Thiền sư Nhất Hạnh đều là người Thừa Thiên. Hai tăng sĩ này chịu
ảnh hưởng nặng của Thích Trí Quang. Thân phụ của Thích Thiện Ân là
Thích Tiêu Diêu đã tự thiêu tại chùa Từ Đàm đêm 16/08/1963. Ông vùng
chạy khi ngọn lửa đang bóc cháy. Còn Thiền sư Nhất Hạnh là đàn em
của Thích Trí Quang, được đi du học Hoa-Kỳ là nhờ Thích Trí Quang xin ông
Ngô-Đình-Cẩn can thiệp giúp.
Mặc dầu được tu học ở Huế, Thích Minh
Châu không chịu ảnh hưởng của Thích Trí Quang nên các tăng sĩ trong Viện Hoá
Đạo muốn đưa Thích Minh Châu về làm Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, chứ
không muốn chọn một trong hai tăng sĩ chịu ảnh hưởng của Thích Trí
Quang. Điều đáng ngạc nhiên là không hiểu vì lý do gì hoặc có sự can
thiệp bí mật từ đâu, Thích Trí Quang cũng đã đồng ý chọn Thích Minh Châu.
Khi Thượng Tọa Thích
Minh Châu từ Ấn-Độ về nước, ông được cử làm Phó Viện Trưởng Điều Hành của Viện
Cao Đẳng Phật Học, còn Thích Thiên Ân làm Giáo Thọ Trưởng.
Có lẽ buồn lòng về quyết định của Viện
Hóa Đạo, Thích Thiên Ân và Thiền sư Nhất Hạnh đã chọn con đường bỏ nước ra đi.
Năm 1966, Thích Thiên Ân đi du học
Hoa-Kỳ rồi ở lại Hoa-Kỳ, lập Trung tâm Thiền học Quốc tế và chùa Phật Giáo
Việt-Nam ở Los Angeles, Hoa-Kỳ, và qua đời năm 1980 tại đây, thọ 75 tuổi.
Cũng trong năm 1966, Thiền sư Nhất
Hạnh ra ngoại quốc kêu gọi chấm dứt chiến tranh, đòi quyền tự quyết và thành
lập một chính phủ hòa giải hòa hợp. Ông làm phát ngôn viên cho
GHPGAQ, đứng về phía Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và phe phản chiến ở
Hoa-Kỳ. Ông đem cả cô Fleurette Cao-Ngọc-Phượng, “Pháp danh” là Sư
cô Chân Không, và đứa con trai qua ở luôn tại Pháp, lập Làng Hồng sau đổi thành
Làng Mai. Lúc đầu Làng Mai do bà Elizabeth Bùi-Kim-Tiền, mẹ của cô
Phượng, đứng tên. Khi bà này qua đời, cô Phượng lên thay.
Viện đại học Vạn Hạnh:
Dược sĩ Nguyễn-Cao-Thăng, Chủ Tịch Hội
Đồng Quản Trị hãng OPV (Office Pharmaceutique du Vietnam), một hãng sản xuất và
nhập cảng duợc phẩm, đã thoát nạn nhờ biết chạy chọt qua ngã nhà chùa. OPV là
một công ty dược phẩm của người Pháp tại Sài-Gòn, được ông Ngô-Đình-Cẩn giao
cho Dược sĩ Nguyễn-Cao-Thăng đứng tên sang lại vào khoảng năm 1956, khi Pháp
rút ra khỏi Việt-Nam, nên được dư luận coi là tổ chức kinh tài của Đảng Cần
Lao.
Giới thạo tin tại Sài-Gòn lúc đó đều
biết người đứng ra làm trung gian thu xếp giữa OPV với cácnhà lãnh đạo Phật
Giáo và các tướng lãnh cầm quyền để Dược Sĩ Nguyễn-Cao-Thăng khỏi bị bắt và OPV
khỏi bị tịch thu là bà Đào-Thị-Xuân-Yến, nguyên Hiệu Trưởng trường trung học
Đồng Khánh ở Huế. Bà là vợ ông Nguyễn-Đình-Chi, Tuần Phủ Hà Tĩnh,
nên thường được gọi là bà Tuần Chi. Ông Nguyễn-Đình-Chi có họ hàng
với Nguyễn-Cao-Thăng. Bà Tuần Chi cũng là đệ tử ruột của Hoà Thượng
Thích Đôn Hậu ở chùa Thiên Mụ. Trong vị thế đó, bà đã đứng ra “Vận
động” (lo lót) để chính quyền và Phật Giáo không đụng đến OPV. Sau
vụ Tết Mậu Thân 1968, bà Tuần Chi đã theo Hòa Thượng Đôn Hậu đi ra Hà-Nội.
Qua sự thu xếp của bà Tuần Chi,
Nguyễn-Cao-Thăng đã tặng cho Phật Giáo một khu đất rộng khoảng 4000 m2 ở
số 222 đường Trương-Minh-Giảng, Quận 3, Sài-Gòn. Sở đất này lúc đó do bà Trương-Ngọc-Diệp, vợ của
Nguyễn-Cao-Thăng đứng tên. Số tiền mặt “Cúng dường” bao nhiêu không
biết được. Viện Hóa Đạo quyết định dùng khu này để xây cất Viện Đại
Học Vạn Hạnh.
Trong cuốn Bạch Thư đề ngày
31/12/1993, Hòa Thượng Thích Tâm Châu còn cho biết Tướng Nguyễn-Khánh đã cho
GHPGVNTN thuê tượng trưng một khu đất gần 5 mẫu ở đường Trần-Quốc-Toản để làm
trụ sở chính của Giáo Hội và cúng 10 triệu đồng để làm chùa. Sau đó,
Hòa Thượng có mượn thêm của chính phủ Nguyễn-Cao-Kỳ 50 triệu nữa và giao cho
các Hoà Thượng Thiện Hòa, Thiện Hoa, Trí Thủ và Từ Nhơn để xây Việt-Nam Quốc
Tự, nhưng họ giữ tiền và không xây (tr. 22 và 23). Thật ra họ chỉ xây cái tháp!
Theo yêu cầu của Viện Hóa Đạo, ngày
17/10/1964, Bộ Quốc Gia Giáo Dục đã ban hành Nghị Định số 1805-NĐ/PG/NĐ hợp
thức hóa Viện Cao Đẳng Phật Học. Viện này tạm đặt trụ sở tại Chùa
Pháp Hội và Chùa Xá Lợi ở Sài-Gòn. Ngày 13/11/1964, Viện Hóa Đạo ban
hành Quyết Định số 156-VT/QĐ cử Thượng Tọa Thích Minh Châu làm Viện Trưởng thay
thế Thượng Tọa Thích Trí Thủ.
Ngày 09/06/1965, là ngày lễ đặt viên
đá đầu tiên xây cất Viện Đại Học Vạn Hạnh ở số 222 đường Trương-Minh-Giảng (nay
là Lê-Văn-Sĩ). Cuối năm 1965, Viện Hóa Đạo xin phép đổi tên Viện Cao
Đẳng Phật Học thành Viện Đại Học Vạn Hạnh và cử Thượng Tọa Thích Minh Châu làm
Viện Trưởng, Thượng Tọa Thích Mãn Giác làm Viện Phó.
Năm 1966, việc xây cất Viện Đại Học
Vạn Hạnh hoàn tất, gồm tòa nhà chính với bốn tầng lầu. Đây là nơi
đặt văn phòng làm việc của Viện Trưởng, văn phòng các Phân Khoa, văn phòng các
nha sở, thư viện, câu lạc bộ, các giảng đường, phòng học của sinh
viên.... Năm 1970, Viện xây thêm Toà nhà B làm cơ sở cho Phân Khoa
Giáo Dục. Năm 1972, Viện mua thêm bất động sản số 716 đường
Võ-Di-Nguy (nay là Nguyễn-Kiệm), Phú Nhuận, để làm cơ sở II.
Thầy sao trò vậy:
Khi Viện Đại Học Vạn Hạnh được khánh
thành, các cơ quan tình báo của VNCH và CIA đã cài người vào để theo dõi các
hành động của Thích Minh Châu. Họ có thể là sinh viên, nhân viên,
giảng viên,..v.v... Khi còn ở Việt-Nam, tôi có đọc một tài liệu của một tổ chức
phản chiến Hoa-Kỳ, tố cáo CIA đã huấn luyện và cài Đoàn-Viết-Hoạt và người anh
của Thích Minh Châu là Đinh-Văn-Kinh vào Đại Học Vạn Hạnh để theo
dõi. Khi qua Hoa-Kỳ, tôi có viết thư cho tổ chức này xin tài liệu,
nhưng họ không trả lời.
Quả thật Thích Minh Châu đã đi đúng
con đường mà thầy của ông đã đi. Bác sĩ Lê-Đình-Thám khi được Pháp
giao cho thành lập phong trào chấn hưng Phật Giáo ở Huế để trấn an các cuộc nổi
dậy, ông đã đi học về đạo Phật, rồi rước Hòa Thượng Thích Trí Độ, một đảng viên
Cộng Sản, từ Bình Định ra Huế lập trường An Nam Phật Học để huấn luyện các tăng
sĩ, còn ông lập Hội An Nam Phật Học. Bên ngoài, Thích Trí Độ và Bác
sĩ Lê-Đình-Thám giảng về Phật pháp rất nhiệt tình, nhưng bên trong lập các cơ
sở đảng. Thích Minh Châu, Võ-Đình-Cường, Ngô-Điền.… đều được
Lê-Đình-Thám chiêu dụ vào đảng. Mãi cho đến khi Việt Minh cướp chính
quyền, người ta mới khám phá ra Thích Trí Độ và Lê-Đình-Thám là hai đảng viên
cao cấp của Đảng Cộng Sản!
Biết mình bị theo dõi, trong thời gian
làm Viện Trưởng, Thích Minh Châu không hề có một hành động hay lời tuyên bố nào
liên quan đến chính trị, kể cả việc ủng hộ các cuộc tranh đấu của GHPGAQ, mặc
dầu ông là Vụ Trưởng Tổng Vụ Văn Hóa Giáo Dục của Giáo Hội này. Tuy
nhiên, cơ quan an ninh đã khám phá ra một đảng viên của Thành Ủy Huế được Thích
Trí Quang gởi vào nằm vùng ở đây, đó là Nguyễn-Trực. Các cuộc xách
động sinh viên Vạn Hạnh chống chính quyền đều do Nguyễn-Trực thực hiện.
Hồ sơ của Nguyễn-Trực có đầy đủ tại Ty
Cảnh Sát Huế, nhưng có lệnh không được bắt, đợi đến khi Nguyễn-Trực về Huế họp
với Thành Ủy xong mới bắt. Cơ quan an ninh đã tra khảo và định đưa
Nguyễn-Trực đi giam ở Phú Quốc, nhưng Thích Trí Quang can thiệp, chính quyền
lại ra lệnh thả ra. Nguyễn-Trực và Võ-Đình-Cường là hai đảng viên
được Thích Trí Quang bảo vệ rất chặt chẽ.
Đến ngày 30/04/1975,
Thích Minh Châu và Nguyễn-Trực mới công khai xuất đầu lộ diện. Câu
chuyện này chúng tôi sẽ nói sau.
Bài 4:
Trong cuốn Bạch Thư
đề ngày 31/12/1993, Hoà Thượng Thích Tâm Châu đã viết:
“Khi quân Cộng Sản
từ rừng về Sài-Gòn, đã có gần 500 Tăng, Ni của phe tranh đấu Ấn Quang ra đón
chào”.
Chắc đa số quý vị đã
biết người dẫn gần 500 Tăng, Ni đi đón “quân giải phóng” đó là ai rồi.
Ngoài công tác khởi
đầu nói trên, sau ngày 30/04/1975, Thượng Tọa Thích Minh Châu đã được Đảng CSVN
(Cộng sản Việt-Nam) giao cho hai nhiệm vụ rất quan trọng, đó là phá sập Giáo
Hội Ấn Quang và huấn luyện hệ thống sư quốc doanh.
Đón quân giải phóng:
Báo Sài-Gòn Giải
Phóng điện tử ngày 06/05/2009, có đăng bài “Buổi bình minh ở khu căn cứ lõm”
của Phạm-Thục kể lại chuyện quân Việt Cộng tiến vào Sài-Gòn qua ngã tư Bảy
Hiền, trong đó có đoạn ghi như sau:
“Khoảng
15 giờ ngày 30 tháng 04, lực lượng của anh Hai Nhựt, anh Tư Vũ
(Nguyễn-Thế-Thông) và các đồng chí khác đã về đến Bảy Hiền. Nơi đây
bà con đã tập trung rất đông để chào đón những đứa con giải phóng”..
Số “Bà con đã tập
trung rất đông” nói ở đây là khoảng 500 người, bao gồm một số tăng ni, sinh
viên Đại Học Vạn Hạnh và một số phật tử thuộc Giáo Hội Ấn
Quang. Nhóm này được Thích Minh Châu và Nguyễn-Trực điều động và dẫn
đi.
Khi có lệnh các công
chức và quân nhân chế độ cũ phải ra trình diện, Viện Đại Học Vạn Hạnh đã tự
động biến thành một địa điểm trình diện do Nguyễn-Trực điều
hành. Sau đó, Nguyễn-Trực trở thành một thành viên của Ủy Ban Quân
Quản Quận Ba. Các công chức cao cấp và sĩ quan trong vùng, ít ai dám
đến trình diện ở Viện Đại Học Vạn Hạnh, vì kinh nghiệm của vụ Phật giáo đấu
tranh chiếm Đà Nẵng năm 1966, họ biết rằng đến một nơi do nhóm “Cách mạng giờ
thứ 25” chiếm đóng, có thể bị mất mạng như chơi.
Sau này, Nguyễn-Trực
tổ chức vượt biên để kiếm tiền đã bị bắt và bị khai trừ. Một nguồn
tin cho biết gần đây Nguyễn-Trực đã được đến định cư tại Orange County, tiểu
bang California, Hoa-Kỳ, do sự bảo lãnh của một người con vượt biên.
Vợ của Thích Minh
Châu là Lê-Thị-Bé đã hoạt động tích cực trong Hội Phụ Nữ Cứu Quốc khi Việt Minh
cướp chính quyền vào năm 1945 và sau đó được kết nạp vào Đảng Cộng
Sản. Sau 30/04/1975, Lê-Thị-Bé và hai con đã được Đảng cấp giấy phép
cho vào Sài-Gòn thăm chồng là Thượng Tọa Thích Minh Châu, nhưng chỉ được phép ở
lại Sài-Gòn 10 ngày mà thôi. Trong dịp này, bà có đến thăm một vài
gia đình quen thân cũ đã di cư vào Nam năm 1954. Đảng không muốn dân
chúng biết lai lịch của Thích Minh Châu để bảo vệ uy tín của ông và xử dụng ông
vào công tác Phật Giáo vận quan trọng sau này.
Chúng tôi may mắn
được gặp và nói chuyện với một người thân đã đón tiếp bà Lê-Thị-Bé nên biết
được nhiều chuyện bí mật về cuộc đời của Thích Minh Châu và gia đình của ông.
Phá sập Giáo Hội Ấn
Quang:
Cũng trong cuốn Bạch
Thư nói trên, Hoà Thượng Tâm Châu đã viết:
“- Ngày 19/05/1975,
phe tranh đấu Ấn Quang đã tổ chức sinh nhật Hồ-Chí-Minh tại chùa Ấn Quang.
- Hiệp Thương
Chính Trị thống nhất hai miền Nam, Bắc của Cộng Sản, một Thượng Tọa của phe Ấn
Quang đã làm một bài tham luận, nịnh Cộng Sản, kể công của Ấn Quang và đả kích
Nha Tuyên Úy Phật Giáo cùng Giáo Hội Thích Tâm Châu”.
Nhiều người đã đặt
câu hỏi: Cứ theo Bạch Thư của Hoà Thượng Tâm Châu, Giáo Hội Ấn Quang rất “Có
công với Cách Mạng”, tại sao nhà cầm quyền VNCS (Việt-Nam Cộng sản) lại đánh
sập giáo hội này? Thích Minh Châu đã đóng vai trò gì trong vụ đó?
Câu chuyện khá phức tạp. Khi Việt
Cộng chiếm miền Nam Việt-Nam, đa số các tăng sĩ trong Giáo Hội Ấn Quang tin
tưởng một cách đơn giản rằng họ là những người “Có công với Cách Mạng” và Phật
Giáo sẽ trở thành một thế lực lớn mạnh nhất khi thống nhất được Phật Giáo Nam –
Bắc. Công việc đầu tiên là phải thống nhất Phật Giáo dưới sự lãnh
đạo của Giáo Hội Ấn Quang, sau đó sẽ dùng Phật Giáo “hóa giải” Cộng Sản và tiến
tới nắm chính quyền.
Trong “Đơn xin cứu xét nhiều việc” gởi
nhà cầm quyền VNCS, Hoà Thượng Huyền Quang kể lại rằng sau ngày thống nhất đất
nước, Giáo Hội Ấn Quang đã viết thư cho Hội Phật Giáo ở miền Bắc đề nghị thống
nhất, nhưng Hội Phật Giáo này không đáp ứng. Giáo Hội đã cử Hòa
Thượng Thích Đôn Hậu từ miền Bắc về, đại diện cho Giáo Hội đến xin gặp ông
Nguyễn-Văn-Hiếu, lúc bấy giờ là Bộ Trưởng Văn Hóa. Hoà Thượng Huyền Quang cho
biết về câu chuyện gặp gỡ giữa hai bên như sau:
“Hòa Thượng chúng
tôi xin phép cho Giáo Hội chúng tôi vận động thống nhất Phật Giáo Việt-Nam, sau
đó tiến đến thống nhất Phật Giáo hai miền. Nhưng bị ông Bộ Trưởng
Văn Hóa từ chối với lý do: “Thống nhất Phật Giáo thì tốt, nhưng thống nhất với
Phật Giáo cách mạng, chứ thống nhất làm gì với Phật Giáo phản động!” Hòa
Thượng chúng tôi hỏi: “Phật Giáo phản động là ai?” Ông Bộ Trưởng
Hiếu không trả lời (Ông Hiếu ám chỉ Giáo Hội chúng tôi là phản động)”.
Bị coi là “Phật Giáo
phản động”, Giáo Hội Ấn Quang tưởng như đang ở dưới thời VNCH, mở chiến dịch
chống lại. Cộng Sản đã đàn áp thẳng tay và tìm biện pháp xóa sổ Giáo
Hội Ấn Quang.
Ngày 12/02/1980,
Hà-Nội cho Hòa Thượng Thích Đức Nhuận, Quyền Hội Trưởng Hội Phật Giáo Thống
Nhất (Quốc doanh miền Bắc) vào Nam vận động thống nhất Phật
Giáo. Ông họp với 20 đại biểu của các tổ chức và tông phái Phật Giáo
miền Nam do Mặt Trận Tổ Quốc lựa chọn. Kết quả, hội nghị đã quyết
định thành lập Ủy Ban Vận Động Thống Nhất Phật Giáo và bầu Thượng Tọa Thích Trí
Thủ, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo của Giáo Hội Ấn Quang làm Trưởng Ban, còn Hòa
Thượng Đôn Hậu, Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống, làm Cố Vấn.
Thượng Tọa Minh Châu
đã đóng vai trò gì trong cuộc “vận động” này?
Tài liệu cho biết
Thượng Tọa Minh Châu đã họp các Thượng Tọa Trí Thủ, Trí Tịnh, Thiện Hào, Thiện
Châu, Từ Hạnh và Hiển Pháp cùng với các cư sĩ Đỗ-Trung-Hiếu, Võ-Đình-Cường,
Tống-Hồ-Cầm.... thành lập một nhóm chống lại sự phản kháng của nhóm Thượng Tọa
Huyền Quang và Quảng Độ. Ngày 17/08/1981, Thượng Tọa Minh Châu đã
làm một bản tường trình cho biết tại Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo Giáo Hội Ấn Quang
“Đã diễn ra những sự kiện khác thường”, đó là việc “Thượng Tọa Thích Quảng Độ,
Tổng Thư Ký Viện Hóa Đạo, triệt hạ uy tín toàn Ban Vận Động Thống Nhất Phật
Giáo, ngang nhiên thách thức Chính phủ và Mặt Trận Tổ Quốc Việt-Nam”.
Chúng ta cần nhớ
rằng kể từ khi GHPGVNTN bể làm hai vào năm 1966, Thượng Tọa Minh Châu luôn ở
trong Giáo Hội Ấn Quang với chức vụ Vụ Trưởng Tổng Vụ Văn Hóa Giáo Dục cho đến
sau năm 1975.
Trong đại hội ngày
04/11/1981, tại chùa Quán Sứ ở Hà-Nội, có 164 đại biểu của các tổ chức, giáo
hội và hệ phái Phật Giáo tham dự, Thượng Tọa Trí Thủ, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo
của Giáo Hội Ấn Quang, đã đem Giáo Hội này sát nhập vào Giáo Hội Phật Giáo Việt-Nam,
tức Giáo Hội nhà nước, và được bầu làm Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự. Hòa
Thượng Thích Trí Tịnh làm Phó Chủ Tịch, còn Thượng Tọa Minh Châu giữ chức Phó
Chủ Tịch kiêm Tổng Thư Ký liên tiếp ba nhiệm kỳ I, II và III từ 1981 đến
1997. Sau đó, ông làm thành viên của Hội Đồng Chứng Minh.
Các Thượng Tọa Thiện
Minh, Huyền Quang, Đức Nhuận, Quảng Độ và một số vị khác không tán thành, đã bị
bắt.
Trường huấn luyện các sư quốc doanh:
Năm 1976, Thượng Tọa
Minh Châu đã bàn giao Viện Đại Học Vạn Hạnh cho Bộ Giáo Dục, sau đó lên cơ sở
II ở Phú Nhuận, thành lập Phật Học Viện Vạn Hạnh. Công việc chính
được Đảng Cộng Sản giao cho ông là huấn luyện các sư quốc doanh.
Năm 1981, ông được
đưa ra Hà-Nội mở Trường Cao Cấp Phật Học Việt-Nam Cở Sở I ở chùa Quán Sứ và làm
Hiệu Trưởng. Nay trường này đã được đổi thành Học Viện PGVN (Phật
Giáo Việt-Nam) và năm 2006, được dời về một cơ sở rộng lớn mới được xây cất ở
thôn Vệ Linh, xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà-Nội.
Năm 1984, ông trở
lại Sài-Gòn và biến Phật Học Viện Vạn Hanh thành Trường Cao Cấp Phật Học Cơ Sở
II do ông làm Hiệu Trưởng. Nay, trường này cũng đã được biến thành
Học Viện PGVN.
Hiện nay, tại
Việt-Nam có 4 Học Viện Phật Giáo trên toàn quốc trực thuộc Trung ương Giáo Hội
Phật Giáo nhà nước được dùng để huấn luyện các sư quốc doanh, đó là các Học
Viện PGVN tại Hà-Nội, Sài-Gòn, Huế và Học Viện Phật Giáo Nam Tông Khmer tại Cần
Thơ.
Theo tài liệu, các
tăng ni sinh khi trúng tuyển vào học tại các Học viện này, được tu học nội trú
100% trong ký túc xá. Tăng ni sinh được miễn 100% chi phí ăn ở và
90% chi phí huấn luyện trong suốt thời gian tu học. Các báo trong
nước viết: “Hòa thượng (Minh Châu) đã mở trường trong Đạo và ngoài đời để huấn
luyện hàng nghìn Tăng Ni cấp Cử nhân Phật học cho Giáo hội, hàng chục nghìn sinh
viên có bằng cấp thành đạt cho xã hội.”
Thực chất của các
“Sư quốc doanh” hay “Sư công an” được Thích Minh Châu huấn luyện như thế nào,
các bloggers đã mô tả khá nhiều. Ở đây, chúng tôi chỉ xin trích lại
một đoạn của một tác giả trong nước phổ biến trên các diễn đàn:
“Nhân ngày làm lễ
tốt nghiệp ra trường “Đại Học Phật Giáo” cho 274 tăng ni tại thành phố Sài-Gòn
hôm kia, làm tôi nhớ lại chuyến đi thăm trường “Đại Học Phật Học”
này. Khi tôi vào thăm trường, cả 6 lớp đang học tiếng Phạn, khoảng
30 phút sau thì đến giờ nghỉ giải trí. Nghe nói hôm đó Thầy Thích
Thanh Tứ đến nói chuyện với các tăng ni trong trường nên không khí rất vội vàng
và nghiêm chỉnh. Nhìn bãi để xe của nhà trường làm tôi suy
nghĩ. Các nam nữ tăng ni đi học đại học hầu hết là bằng xe gắn máy
phân khối lớn và toàn loại sang. Có nhiều tăng ni đi đến trường cả
bằng xe hơi nữa.
“Trong giờ nghỉ giải
trí, quanh các quày bán sách, và sân trường, tiếng chuông điện thoại di động
của các tăng ni reo không ngừng. Hầu hết các “Hoà thượng trẻ” đều
dùng điện thoại đời mới và nhỏ xíu. Tôi ghé vào quán sách dưới bóng
cây bồ đề ở góc sân trường, để tìm mua một vài quyển sách, thì thấy ở đây sách
in rất nhiều và bìa đẹp, nhưng giá thì rất đắt, có quyển giá tới
540.000$. Thoạt đầu, tôi tưởng với giá đắt như thế các bậc Hoà
thượng tương lai, sẽ ít mua, nhưng trái với dự đoán của tôi, bác bán sách cho
tôi biết nhiều hôm không có đủ sách để bán.
“Tôi đang đứng suy
nghĩ điều gì đó dưới bóng cây bồ đề, bỗng có một vật lạ bay vào đầu tôi và tôi
ngạc nhiên quay về phía sau thì thấy ba nữ Ni sinh Đại học Phật Giáo, xấu hổ
quay mặt đi vì các cô đó ném cái hạt ô-mai trật mục tiêu,... Lẽ ra nó phải bay
xa hơn nữa và trúng vào vị nam Tăng sinh đẹp trai, người đang đứng phía trước
tôi và đang say sưa trả lời điện thoại....”
Theo phúc trình mới
nhất, hiện nay trong nước có khoảng 17.000 cơ sở chùa chiền với khoảng 50.000
tăng ni. Dĩ nhiên, trong số này cũng có rất nhiều vị chân tu, đi tu để tìm
“Con đường giải thoát”. Nhưng đa số Sư Công An đều thuộc loại “Chân
tu mà tay không tu”. Họ được phái đến “Trụ trì” tại các cơ sở Phật
Giáo để bảo vệ an ninh và kinh tài.
Một đảng viên đúng
tiêu chuẩn:
Các chức vụ và huân
chương mà Thích Minh Châu được chính quyền ban cho kể từ sau ngày 30/04/1975
quá nhiều không thể ghi lại hết được, trong đó có làm đại biểu quốc hội 4 khóa
liền, từ khoá VII đến khoá X.
Không
như Thích Trí Quang, tâm đầy tham vọng và ảo tưởng lúc nào cũng xưng hùng xưng
bá khoác lác và hung hăng..., Thượng Tọa Minh Châu là một con người hòa nhã
không hiếu động luôn hành động theo đường lối của Đảng, không để lộ tung
tích. Ông đã làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó trong công tác trí vận
ở miền Nam trước và sau năm 1975, đã góp công rất lớn trong việc dẹp tan “Phật
Giáo phản động” và huấn luyện cho Đảng một hệ thống sư quốc doanh hoạt động có hiệu
năng. Vì thế ông là một tăng sĩ có uy tính nhất đối với Đảng và nhà
cầm quyền VNCS. Người được chọn để thay ông là Hoà Thượng Thích Trí
Quảng, một đảng viên người gốc Củ Chi, cũng có kiến thức và những đặc tính
tương tự như Thích Minh Châu.
Sau khi Thích Minh
Châu qua đời, báo trong nước cho biết các phái đoàn như Tổng Bí Thư BCH TW (Ban
Chấp Hành Trung Ương) Đảng, Chủ Tịch nước, Quốc Hội, Chính phủ, Ủy Ban Trung
Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt-Nam, Bộ Công an.... đã đến dâng hương và đảnh lễ. Qua
ông, chính sách tôn giáo vận của Đảng Cộng Sản coi như đã thành công, nhưng ông
ra đi không thấy Niết Bàn mà "Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ"!
Điều đáng ngạc nhiên
là mặc dầu Thích Minh Châu đã góp công rất lớn trong việc làm tan rã Giáo Hội
Ấn Quang, làm biến thể Phật Giáo và biến Phật Giáo thành công cụ của Đảng CSVN,
ông vẫn được một số tăng ni và phật tử của Giáo Hội này quý mến và tôn
sùng. Thật đắng cay cho vận nước!