Search This Blog

Thursday, April 30, 2020


NƯỚC MỸ ĐANG BỊ QUỶ ÁM
BẰNG PHONG ĐẶNG VĂN ÂU
Hiền triết Pascal viết: “L’homme n’est qu’un roseau; mais un roseau pensant”. (Con người là một cây sậy, nhưng cây sậy có tư tưởng). Tôi cũng chỉ là cây sậy, xin mạo muội trình bày đôi điều suy nghĩ riêng về tình hình thế giới ngày hôm nay.
Từ thuở hồng hoang, con người là một động vật hoang dã giống như bao động vật khác. Nhưng Thượng Đế ban cho con người một đặc ân: tiếng nói (ngôn ngữ) và khối óc (trí tuệ). Nhờ đó, loài người dần dần tiến bộ từ thời ăn lông ở lỗ đến nền văn minh ngày nay. Trí tuệ khiến cho con người tự hỏi do đâu mà ta có mặt trên hành tinh này? Ta là ai? Để giải đáp thắc mắc đó, tôn giáo, triết học nẩy sinh.
Loài người đã noi theo lời dạy của Đức Phật, Đức Chúa để xây dựng chế độ Dân Chủ, Tự Do.
Đức Phật dạy điều gì? Đức Phật dạy: “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật chưa thành!” Điều đó là ý niệm dân chủ, nếu chúng sinh biết sống tinh tấn, tuân theo Pháp (lời dạy) của Phật, thì chúng sinh cũng sẽ thành Phật như Ngài.
Đức Chúa dạy điều gì? Đức Chúa dạy: “Mọi người đều bình đẳng trước nhan Thiên Chúa”, nghĩa là bất luận vua chúa hay dân đen, giàu hay nghèo, sang hay hèn đều bình đẳng như nhau. Đó là ý niệm công bằng xã hội.
Đức Phật dạy Từ Bi, Đức Chúa dạy Bác Ái. Nhờ lòng Từ Bi và Bác Ái, Phật hay Chúa không cưỡng bách ai phải đi theo các Ngài. Phật và Chúa đều dạy như nhau: “Ai tin ta, thì hãy theo ta”. Phật hay Chúa không hề ép buộc ai theo mình, các Ngài dành cho tín đồ cái quyền lựa chọn. Đó là quyền Tự Do.
Đức Phật xác minh: Từ Bi, nhưng phải trau dồi trí tuệ để biết điều gì là đúng, điều gì là sai. Khi đã biết rõ cái sai thì người con Phật phải có cái dũng để chống lại. Vì vậy, Phật giáo nhấn mạnh ba điều cơ bản để cho người Phật tử tuân theo: Bi – Trí – Dũng.
Với tấm lòng bác ái, Chúa dạy tín đồ của Ngài: “Hãy đem yêu thương vào nơi oán thù, đem ánh sáng (trí tuệ) vào nơi tối tăm; đem thứ tha vào nơi lăng nhục”.
Đức Phật dạy :“Bát Chánh Đạo”, Đức Chúa dạy: “Mười điều răn” dành cho tín đồ của mình noi theo để xây dựng bản thân, gia đình, xã hội, quốc gia.
Tôn giáo là nhất nguyên. Nếu đem tôn giáo vào đời sống chính trị để xây dựng xã hội thì nó trở nên chuyên chính, độc tài. Cho nên nhà soạn thảo Hiến Pháp Mỹ Thomas Jefferson nêu lên quy tắc “Separation of Church and State” (Sự tách biệt giữa Tôn giáo và Nhà Nước) để nền Cộng hòa của nước Mỹ bảo đảm tính dân chủ đa nguyên.
Hiền triết Rabelais viết: “Science sans conscience n’est que ruine de l’âme” (Khoa học mà không có lương tri chỉ là sự huy hoại tâm hồn”. Như đã nói ở trên, con người từ thuở hồng hoang sinh hoạt theo bản năng như dã thú, chưa có ý niệm về lương tri. Chính tôn giáo dạy cho con người có lương tri.
Nhà cách mạng Lý Đông A viết: “Yêu thương là huyết tính loài người”. Đúng thế! Bỏ tình yêu thương ra, con người sẽ độc ác hơn dã thú.
Chủ nghĩa cộng sản là một tôn giáo, vì nó cũng đề ra nhân sinh quan, vũ trụ quan như tôn giáo, nhưng nó xây dựng trên lòng căm thù và đấu tranh giai cấp. Nó tin vào thuyết tiến hóa “con người từ vượn mà ra” của Darwin. Khác với lời Phật hay Chúa dạy “ai tin ta thì theo ta”. Còn đối với cộng sản, ai nghi ngờ đặt câu hỏi tại sao cái tiến trình “từ vượn lên người” không tiếp diễn là bị nó tiêu diệt ngay. Cho nên Cộng sản là tôn giáo của Ác Quỷ vì bản chất tàn bạo và điêu ngoa, dối trá. Cộng sản vẽ ra một thiên đường ảo vọng, như không còn cảnh tượng người bóc lột người hay tài sản được chia đều cho tất cả. Nhưng khi nó cướp được quyền thống trị thì cái thiên đường của cộng sản trở thành hỏa ngục. Trong chế độ cộng sản, chỉ có người nào chịu chấp nhận làm súc vật thì được sống. Nếu ai đòi hỏi quyền làm người đều bị chúng triệt tiêu.
Hoa Kỳ có hai vị Tướng hiểu rõ bản chất dối trá và man rợ của cộng sản hơn cả. Đó là Tướng George Patton và Tướng Douglas McAthur.
1/ Tướng Patton: Sau khi giải phóng Berlin xong, ông đề nghị đánh rốc sang Liên bang Xô viết để giải thoát người dân Nga thoát khỏi nanh vuốt loài Quỷ Đỏ. Tổng thống Harry Truman không chấp thuận, vì sợ quân Mỹ bị sa lầy giống như Hoàng đế Napoléon trong trận đánh Waterloo.
2/ Tướng McArthur: Sau khi đánh đuổi quân cộng sản Triều tiên và chí nguyện quân Tầu Cộng về Bắc Vỹ tuyến 38, Tướng McArthur đề nghị dùng bom nguyên tử chiến thuật đánh tan các Lộ Quân của Mao Trạch Đông và đưa Tưởng Giới Thạch từ Đài Loan trở về Hoa lục. Nhưng Tổng thống Harry Truman không chấp thuận. Ông lập luận rằng con gấu Bắc cực (Nga Sô) cần phải có con sư tử Á châu (Trung Cộng) chế ngự. Chính vì chiến lược dùng Trung Cộng chế ngự Liên Xô, Mỹ đã vờ cho hai nhà khoa học nguyên tử người Mỹ gốc Hoa đào thoát về Bắc Kinh để giúp Mao Trạch Đông thủ đắc vũ khí nguyên tử. Nếu Tổng thống Truman có viễn kiến về hiểm họa cộng sản cho loài người giống như hai vị Tướng của của mình, thì Hoa Kỳ không bị tổn thất nặng nề về nhân mạng và tài chánh trong hai cuộc chiến ở Triều Tiên và Việt Nam.
Không phải Tướng Patton và Tướng McAthur hiếu sát. Nhưng hai ông biết rằng đối với cộng sản, chỉ có sức mạnh của vũ lực để thanh toán nó. Đừng bao giờ hy vọng đem tình yêu thương hay đem ánh sáng văn minh để có thể cảm hóa nó làm người.
Con Virus cộng sản nguy hiểm gấp triệu lần con Virus Vũ Hán, vì nó có thể biến đổi “gen” tùy theo môi trường và tùy theo điều kiện. Cộng sản là quỷ, nó có khả năng mê hoặc trí thông minh con người (như Bill Gates) để làm vật sai khiến của nó. Đạo lý của Virus Cộng sản là “Cứu cánh biện minh phương tiện”. Cứu cánh của nó là biến con người thành súc vật. Để đạt mục tiêu, nó không từ chối sử dụng bất cứ phương tiện nào, dù tồi bại, dơ bẩn, tàn ác đến đâu. Thế mà Hoa Kỳ có sức mạnh nhưng không chịu tiêu diệt con virus nguy hiểm đó, lại cho nó sỗng chuồng và nuôi dưỡng nó lớn mạnh.
Sau năm 1975, Hoa Kỳ tổ chức nhiều cuộc hội thảo gồm các Tướng lãnh và học giả người Mỹ và người Việt Nam để tìm hiểu vì sao cường quốc số #1 thế giới đã bị một quốc gia chậm tiến, lạc hậu như Việt Nam đánh bại. Tôi không thấy có vị Tướng lãnh hay học giả nào nói lên sự thật. Nay tôi xin mạo muội trình bày nhận định của tôi:
1/ Mỹ hứa giúp Pháp ném bom Điện Biên Phủ, rồi thất hứa vì sợ Trung Cộng nhảy vào là một quyết định sai lầm. Nếu Trung Cộng xen vào can thiệp thì đây là cái cớ để dùng biện pháp của Tướng McAthur nhằm thanh toán Trung Cộng.
2/ Thực dân Pháp vốn không ưa Mỹ, nay bị mất mặt vì thua trận Điện Biên Phủ, nên căm thù Đồng Minh thất hứa. Do đó, Thực dân Pháp trút sự căm thù Mỹ lên chính quyền Thủ tướng Ngô Đình Diệm bằng cách ủng hộ Giáo phái Bình Xuyên, Cao Đài và những sĩ quan Việt Nam được Pháp đào tạo như Trần Đình Lan, Vương văn Đông để đảo chánh chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đang non trẻ vào năm 1960.
3/ Mỹ giao trách nhiệm cho Việt Nam Cộng Hòa làm nhiệm vụ tiền đồn canh giữ phòng tuyến tự do là phi lý. Bởi vì Việt Nam Cộng Hòa vừa mới ra khỏi ách đô hộ của Thực dân, lòng người còn ly tán (có kẻ reo hò Việt Minh thắng Pháp trận Điện Biên Phủ), thì làm sao đủ sức để chống lại toàn khối Cộng Sản Nga Tàu? Đã thế, Hoa Kỳ chỉ trang bị cho Việt Nam Cộng Hòa những vũ khí cổ lỗ được sử dụng từ thời Đệ nhất Thế chiến thì dù lính thiện chiến đến thế nào cũng không thể cầm cự nổi quân xâm lăng cộng sản được Nga Tàu tận tình viện trợ. Lại thêm, báo chí Mỹ khen ngợi lính Việt Cộng dũng mãnh như sư tử và miệt thị lính Việt Nam Cộng Hòa nhát như thỏ đế bằng cái câu: “Theirs lions, ours rabbits” (hình như đăng trên trang bìa báo Times hay Newsweek gì đó! Tôi quên mất tên).
4/ Nếu Hoa Kỳ nhận thấy Quân đôi Việt Nam Cộng Hòa bất lực, muốn đem đại quân của mình sang giúp, mà Tổng thống Ngô Đình Diệm phản đối, thì thiếu gì cách áp lực buộc Tổng thống Ngô Đình Diệm từ chức? Tại sao lại nhẫn tâm giết một nhà lãnh đạo mà không bao lâu trước đó Hoa Kỳ từng so sánh ông với Tổng thống Ramon Magsaysay của Phi Luật Tân hay Thủ tướng Nehru của Ấn Độ và mời ông đọc diễn văn trước Lưỡng viện Quốc Hội? Một vinh dự chỉ dành cho nhân vật tên tuổi Winston Churchill, Thủ tướng Anh quốc!
Tổng thống Ngô Đình Diệm khước từ yêu cầu của Mỹ đưa đại quân vào Việt Nam là đúng. Vì Quân đội Mỹ bách chiến bách thắng là nhờ vào hỏa lực hùng hậu. Nhưng đại quân Mỹ không thể thắng trong trận giặc mệnh danh “chiến tranh nhân dân”. Chiến tranh nhân dân là một mỹ từ cộng sản dùng để tuyên truyền làm cho người ta tưởng cuộc chiến tranh Việt Nam là do nhân dân tự phát động. Kỳ thực, chiến tranh nhân dân là một cuộc chiến tranh bẩn thỉu (dirty war), vì cộng sản dùng đàn bà, con nít làm bia chắn đạn trong các trận tấn công đồn bót. Nếu Mỹ dùng đại quân đánh vào Miền Bắc để giải phóng người dân ngoài đó thoát khỏi chế độ cộng sản thì Mỹ không bị thua trận một cách nhục nhã. Đảng Dân chủ Mỹ thời John Kennedy không có nhà lãnh đạo đởm lược và không có sự hiểu biết về “Chiến tranh Nhân Dân” của Mao Trạch Đông!
Chắc chắn tình báo Mỹ biết có Việt cộng nằm vùng trong Phật giáo. Nhưng Mỹ vẫn sử dụng Phật giáo để vu cho chính quyền Tổng thống Ngô Đình Diệm đàn áp tín ngưỡng là một thủ đoạn không lương thiện. Do đó, sau cái chết của gia đình Tổng thống Ngô Đình Diệm, Việt Cộng lợi dụng Phật giáo chống phá liên tục ở hậu phương, xâm nhập cán bộ tình báo vào chính quyền do các Tướng lãnh thay nhau đảo chánh, chỉnh lý, khiến cho Mỹ nản chí, bèn tính kế rút chân ra khỏi Việt Nam.
Khi nghe Đại sứ Henry Cabot Lodge tuyên bố tại Singapore: “Cuộc chiến này sẽ không có kẻ thắng người bại”, tôi rất nản. Tôi xin lỗi phải nói câu này: “Đó là một câu tuyên bố hết sức ngớ ngẩn!” Dù lúc bấy giờ mới chỉ là sĩ quan cấp úy, tôi đã thấy trước Quốc gia mình sẽ thua trận vì cái quan điểm bất phân thắng bại của đại cường. Nguyên tắc lãnh đạo chiến tranh là đã đánh thì phải thắng; nếu nhắm chừng không thắng thì không đánh! Đừng nói đến chuyện nhân đạo, vì chiến tranh là chiến tranh!
Thay vì coi Việt Nam Cộng Hòa là Đồng Minh, Đại sứ Mỹ hành xử giống như quan Toàn Quyền Thực dân, không thèm cứu xét lời đề nghị của lãnh đạo VNCH yêu cầu Mỹ giữ an ninh cho Miền Nam và yểm trợ Không quân cho Quân đội Miền Nam mở cuộc hành quân Bắc Tiến. Dẫu cuộc Bắc Tiến thất bại đi nữa, thì Quân đội VNCH xứng đáng ghi danh vào Quân sử Thế giới là những chiến sĩ  đại diện Thế giới Tự do tấn công vào thành trì Quốc tế Cộng sản cho nhân loại. Mỹ đẩy võ sĩ lên võ đài mà trói tay võ sĩ thì làm sao thắng địch thủ? Giới hạn cung cấp phương tiện chiến đấu cho Đồng Minh là hành động rất vô đạo đức, coi thường sinh mạng chiến sĩ.
5/ Vì không dứt khoát giành chiến thắng trên chiến trường, nội tình nước Mỹ trở nên rối loạn, cộng sản Nga Tàu lợi dụng tình thế, bơm tiền cho các phong trào phản chiến, gây bạo động trên đường phố. Chán ngán chiến tranh, phong trào Hippy chủ trương sống thác loạn với câu khẩu hiệu “Make Love Not War” là kết quả của chủ trương “Chiến tranh bất phân thắng bại” của Hoa Kỳ. Chưa bao giờ nước Mỹ bị lâm vào tình trạng phân hóa trầm trọng đến như thế. Chia rẽ là môi trường thuận lợi cho chủ nghĩa cộng sản sinh sôi. Tổng thống Lyndon Johnson không ra tranh cử. Đảng Cộng Hòa dưới sự lãnh đạo của Richard Nixon hứa hẹn với cử tri sẽ chấm dứt chiến tranh trong danh dự. Thắng cử, Nixon thi hành chính sách “Việt Nam hóa chiến tranh”.
Chủ trương “Việt Nam hóa chiến tranh” là một hành động rất đểu. Bởi vì một mình Việt Nam Cộng Hòa làm sao có thể chống lại cả khối Cộng sản Quốc tế? Viện trợ cho Không Quân VNCH loại máy bay huấn luận T-37, T-38 thành A-37, F-5 thì làm sao đủ xăng, bom đạn để bảo về Hoàng Sa, Trường Sa? Nếu lãnh đạo VNCH có cái dũng khí như Đại tá Hồ Ngọc Cẩn công khai tuyên bố trước quốc dân cái đểu, cài hèn của Đồng Minh cho toàn thế giới biết; rồi thề sống chết với toàn dân cùng tử chiến chống quân thù đến giọt máu cuối cùng, vì trước sau gì cũng chết trong nhục nhã, thì đâu đến nỗi có một lớp người ngửa tay đi ăn xin tình thương cùng khắp với một lớp người bị cộng sản đối xử như súc vật trong Trại Tập trung ?!
Năm 1954, Ngoại trưởng Foster Dulles dưới thời Tổng thống Eisenhower từ chối bắt tay Chu Ân Lai tại Genève. Tháng 7 năm 1971, Cố vấn Kissinger bí mật sang Bắc Kinh dàn xếp cuộc gặp gỡ của Richard Nixon với Mao Trạch Đông, là dấu hiệu cho thấy vận mạng nước Việt Nam đã an bài. Đồng thời, vận mệnh của Hoa Kỳ cũng đã an bài, vì con cháu Chúa lại bắt tay thân thiện với Quỷ sứ, thì ngày nay Hoa Kỳ lãnh hậu quả Virus Vũ Hán là điều đương nhiên! Ngày 30 Tháng Tư năm 1975 không phải chỉ là mối nhục cho riêng Việt Nam Cộng Hòa, mà còn là mối nhục cho cả Thế giới Tự Do!
Richard Nixon, Henry Kissinger tưởng rằng bỏ rơi Việt Nam thì có thể sống chung hòa bình với Trung Cộng để tha hồ làm giàu tại một thị trường có 1 tỉ 400 triệu miệng ăn lúc nào cũng đói khát. Nixon nghĩ rằng nước Mỹ từng dội bom nguyên tử xuống đất Nhật, sau đó giúp Nhật giải trừ chế độ quân phiệt, vực dậy nền kinh tế vào hàng thứ hai trên thế giới và trở thành đồng minh gắn bó, thì Hoa Kỳ cũng có thể giải trừ chế độ cộng sản của Mao Trạch Đông bằng cách làm cho Trung Cộng trở nên giàu mạnh, rồi hai bên cũng sẽ trở thành đồng minh để chống Liên Xô. Quan điểm đó hoàn toàn sai lầm, bởi vì chủ nghĩa cộng sản là một thứ cặn bã của loài người, của quỷ sứ, nó không có khả năng biết xấu hổ để có thể đem lòng từ bi, đức bác ái mà cảm hóa nó. Đối với cộng sản, chỉ có một cách duy nhất là: “Một mất, Một còn”. Hy vọng sống chung hòa bình với nó là ảo tưởng!
Trung Cộng có kế hoạch đánh Mỹ từ năm 1954 trên chiến trường Việt Nam bằng thân xác người Việt Nam. Sau năm 1975, Trung Cộng chuẩn bị đánh Mỹ ngay trên đất Hoa Kỳ bằng cái quyền tự do ngôn luận của chế độ dân chủ của Hoa Kỳ.
Nếu độc giả còn nhớ có lần Tổng thống Ronald Reagan gọi Liên Xô là Đế quốc Ma Quỷ (Evil Empire) thì lập tức Washington Post, New York Times liền lớn tiếng yêu cầu Ronald Reagan xin lỗi, vì gọi như thế là xúc phạm. Nhắc đến điều này, tôi muốn nói rằng vì chiến tranh Việt Nam dây dưa, cộng sản đã dùng chiêu bài phản chiến để cài vào nền giáo dục Hoa Kỳ nhằm đào tạo một đội ngũ báo chí “liberal”. Danh từ “liberal” là để che giấu hai chữ “cộng sản” thối tha. Truyền thông “liberal” là bộ máy tuyên truyền sự dối trá, là khí giới của cộng sản, vì nó bất chấp Sự Thật và Lương Tri.
Năm 2008, trong bài diễn văn nhượng bộ Barack Hussein Obama đại diện đảng Dân chủ ra tranh cử Tổng thống, bà Hillary Clinton từng khóc một cách tức tối vì truyền thông ủng hộ Obama, làm cho bà thua. Theo cụ Joseph Kennedy, thân sinh của cố Tổng thống John Kennedy, điều kiện để có thể làm Tổng thống thì phải có rất nhiều tiền. Obama chỉ là “Community leader”, mới đắc cử Thượng Nghị sĩ, tiếng tăm chưa có, nhưng được nhà tài phiệt Geroge Soros thân Cộng vận động tài chánh, nên quỹ tranh cử của Obama lên đến 2 tỉ đô-la. Một số tiền lớn chưa từng ứng cử viên Tổng thống nào có từ trước. Có nhiều tiền thì dễ dàng mua truyền thông quảng cáo để cử tri cứ thế dồn phiếu thôi.
Khi tranh cử, Obama hứa sẽ đi vận động khắp 57 Tiểu bang mà truyền thông không hề chê Obama dốt vì nước Mỹ làm gì có 57 Tiểu bang? Khi làm Tổng thống, Obama ngồi họp với các Bộ trưởng trong Nội các, gác hai chân lên bàn, truyền thông không chê Obama vô văn hóa, Obama cúi rạp người trước các vua Ả Rập, Hoàng đế Nhật, chui cửa đuôi máy bay khi đến triều kiến Tập Cận Bình làm nhục quốc thể, nhưng truyền thông không có một lời bình phẩm thì làm sao chúng ta không coi khinh cái thứ truyền thông tôi tớ đó cho được?
Obama ủng hộ khẩu hiệu “Black Life Matters”, nhưng không bị truyền thông kết tội Obama kỳ thị chủng tộc.
Obama cấm không được dùng chữ “Merry Christmas” vào dịp lễ Giáng sinh mà chỉ được nói “Happy Holliday”, nhưng truyền thông không cáo buộc Obama ngăn cấm quyền tự do tín ngưỡng. Obama cấm không được dùng chữ “quân khủng bố Hồi giáo’, mà chỉ được nói “Hồi giáo quá khích”, nhưng truyền thông không chê Obama đứng về phía quân khủng bố. Trong khi mọi người đứng nghiêm chỉnh chào quốc kỳ, Obama chắp hai tay trước hạ bộ và mặt đảo quanh nhìn trời, nhưng truyền thông không phê phán Obama coi thường nghi lễ quốc gia.
Obama biết Hillary Clinton sử dụng “private server” mà chối, nhưng truyền thông không buộc Obama cái tội nói dối và tiếp tay cho kẻ làm nguy hại an ninh Quốc phòng. Truyền thông được Mỹ gọi là “Đệ tứ quyền” trở nên thiên vị, bất lương đến như thế thì chúng ta phải tin rằng họ đã bị Trung Cộng bỏ tiền ra mua chuộc là đúng! Barack Obama mới lên làm Tổng thống, chưa có một thành tích gì đáng kể, mà được trao giải thưởng Nobel Hòa Bình thì phải tự hỏi tại sao Thụy Điển lại có thể “tử tế” đến thế, trong khi Tổng thống Ronald Reagan có công dẹp Liên bang Xô Viết lại không được? Có phải “phù thủy Trung Cộng” đứng đàng sau để tạo uy tín cho con cờ của mình sử dụng sau này? Các sự kiện tạo tiếng tăm cho Barack Obama là một quá trình rất công phu của Trung cộng; chứ không bao giờ là chuyện ngẫu nhiên. Cũng như sự đánh phá Tổng thống Donald Trump liên tục cũng phải do một thế lực “thù địch chỉ đạo”.
Sau cuộc bầu cử Tổng thống năm 2016, chúng ta mới biết có “Nhà Nước Ngầm” (Deep States) gồm những phần tử bí mật thực hiện kế hoạch của Obama để đưa bà Hillary Clinton lên làm Tổng thống nhằm tiếp tục dự án đẩy nước Mỹ đi vào con đường Xã hội Chủ Nghĩa. Sự chuẩn bị chu đáo mọi mặt từ trí thức, truyền thông, tư pháp đến an ninh, quốc phòng mà rút cục bị ông tỉ phú chưa từng dấn thân vào trường chính trị đánh bại thì chúng nó căm giận, nên phải dốc toàn lực để truất phế ông Trump là vậy!
Là nạn nhân cộng sản, tôi hết sức ghê tởm cộng sản lừa đảo, nên sớm thấy nước Mỹ bị quỷ ám giống Việt Nam. Không quỷ ám làm sao được, trong khi thế giới kết án cộng sản phạm tội diệt chủng, hễ quốc gia nào dính tới xã hội chủ nghĩa đều nghèo đói, bất công, tham nhũng, độc tài mà bọn nhà giàu ủng hộ tiền cho bọn chính trị gia lưu manh lôi kéo quần chúng đi theo cái chế độ chống lại nền văn minh loài người?
Chắc chắn Giáo sư kinh tế Peter Navarro đã suy gẫm và nghiên cứu mối thảm họa Trung Cộng sẽ gieo rắc cho tương lai Hoa Kỳ từ nhiều năm thì mới xuất bản cuốn sách “Death By China” vào năm 2011. Tại sao giới Đại học, Tư bản, Truyền thông không thèm đếm xỉa đến vận mạng quốc gia mình? Làm sao có câu trả lời, ngoài việc kết luận rằng thành phần gọi là “tinh hoa” (élite) của Mỹ đã bị quỷ ám giống như trí thức Việt Nam?
Giam đốc FBI, Tiến sĩ Christopher Wray, cho biết gián điệp Trung Cộng có mặt trên khắp 50 Tiểu bang và những trường Đại học danh tiếng ở Mỹ đều được Trung Cộng tài trợ (đút tiền hối lộ) để đào tạo cho Trung Cộng ba trăm ngàn sinh viên mỗi năm để tiến hành chiến lược thống trị loài người bằng bá đạo.
Không những đảng Dân Chủ, bọn truyền thông thổ tả bị Trung Cộng dùng tiền thao túng để hạ bệ ngôi vị lãnh đạo nền văn minh nhân loại, bọn Cộng Hòa cũng bị quỷ ám như John McCain, Mitt Romney, Jeff Session… để chống vị Tổng thống nhìn thấy rõ âm mưu gian ác của Trung Cộng và thề tiêu diệt tham vọng của nó. Nếu người nào còn một chút lương tri, thì phải biết xiết tay nhau đoàn kết ủng hộ Tổng thống để chống lại cuộc chiến bằng bom sinh học của Trung Cộng vừa tung ra khắp nơi trên thế giới. Trái lại, Tổng thống Donald Trump mới gọi tên con vi khuẩn “Wuhan Virus” liền bị bọn Dân Chủ và truyền thông thổ tả kết tội ông kỳ thị chủng tộc và yêu cầu ông phải xin lỗi Cộng đồng người Hoa!
Trung Cộng không những lũng đoạn nội tình chính trị nước Mỹ mà thôi. Chúng còn khuynh đảo các định chế thế giới do Hoa Kỳ lập ra như Liên Hiệp Quốc, Ngân hàng Thế giới và World Health Organization bằng trò hối lộ rất tinh vi. Nói tóm lại, Trung Cộng đang tấn công Hoa Kỳ trên hai mặt trận nội công – ngoại kích.
Năm 1954, Hoàng Đế Bảo Đại đem tinh thần trách nhiệm của thần dân, yêu cầu ông Ngô Đình Diệm về nước để cứu phần đất còn lại cho Tổ Quốc Việt Nam thoát khỏi nanh vuốt của Quỷ Cộng Sản. Ông Ngô Đình Diệm bước đến bàn thờ cầu xin Đức Mẹ trợ giúp, rồi mới nhận lời. Chẳng may nước Việt Nam bị mắc nạn nghiệp chướng quá nặng nề, nên Ngài không thể hoàn thành sứ mệnh vác Thánh Giá. Nước Việt Nam đành rơi vào sự thống trị của Việt Cộng trong hỏa ngục Đỏ.
Năm 2016, Thiên Chúa sai nhà tỷ phú Donald J. Trump làm nhiệm vụ cứu nước Mỹ đang bị thế lực đồng tiền của Trung Cộng sai khiến làm cho lương tri con cái Chúa không còn. (Có người tin rằng ông Donald Trump là hậu thân của Tướng George Patton tái sinh để tiêu diệt cộng sản). Chẳng hay nạn dịch Vũ Hán có đủ cường độ để thức tỉnh lương tri loài người chống lại con quỷ cộng sản? Hay số phận của Tổng thống Donald Trump cũng như số phận Tổng thống Ngô Đình Diệm, thì loài người sẽ không thoát khỏi ách thống tri của Quỷ Cộng sản trong hỏa ngục Đỏ?
Chiếc mặt nạ của con quỷ Tập Cận Bình đã rơi xuống, dù bộ máy tuyên truyền Trung Cộng ra sức đổ lỗi cho Hoa Kỳ gây ra Virus ở Vũ Hán. Chúng ta đã thấy nhiều quốc gia đòi kiện Trung Cộng phải bồi thường thiệt hại. Đó chỉ là màn chiến tranh tâm lý, bởi vì nếu Trung Cộng bất tuân, thì lấy ai đủ sức mạnh để chế tài? Ngày xưa tám quốc gia Tây phương có thể xé nước Tàu ra làm nhiều mảnh, vì triều đình nhà Thanh suy yếu. Ngày nay, Trung Cộng ngồi trên kho vũ khí nguyên tử, thì không đời nào chúng nằm yên chịu chết. Tôi đoán rằng sẽ có hai kịch bản xảy ra:
1/ Nếu Thượng Đế ra tay cứu giúp, nội bộ cộng sản Tàu nhận thấy tham vọng “Một vành đai, một con đường” của Tập Cận Bình đưa nước Trung Hoa đến sự hủy diệt nhân loại, họ tự động đứng lên làm cuộc cách mạng dân chủ trong hòa bình như Liên Xô trong thế kỷ trước.
2/ Trường hợp (1) khó xảy ra, vì bộ máy của chế độ độc tài toàn trị cộng sản không có chuyện ai tin ai để mưu đồ đại sự. Trung Cộng tin rằng chúng có 1 tỷ 400 triệu dân thì dù chiến tranh nguyên tử xảy ra, dù chúng bị hy sinh 1 tỷ dân, thì chúng vẫn còn 400 triệu. Rất có thể Trung Cộng sử dụng nước liều vì lâm vào đường cùng, nên tấn công Việt Nam hay Đài Loan, bởi vì Trung Cộng tin rằng chúng sẽ chiến thắng, vì những bọn quỷ ảm được chúng cấy từ nhiều năm nay sẽ làm nội ứng. Tổng thống Donald Trump đang có lực lượng quân sự mạnh nhất hoàn cầu, chắc chắn không thể ngồi yên để cho Trung Cộng tự do hoành hành. Thế là Đại chiến Thế giới xảy ra.
Chẳng ai làm được gì trong tình thế này. Tôi chỉ biết cầu nguyện Trời Phật ra tay giúp Tổng thống Donald Trump tiêu diệt con quỷ cộng sản để mang lại hòa bình cho nhân loại.
Bằng Phong Đặng văn Âu,
Viết để nhớ Ngày 30 Tháng Tư.
Telephone: 714 – 276 – 5600 ;



Saturday, April 11, 2020


ĐỊNH MỆNH AN BÀI

BẰNG PHONG ĐẶNG VĂN ÂU
Ban biên tập phụ trách thực hiện cuốn kỷ yếu để đánh dấu 50 năm đời quân ngũ được tổ chức vào ngày 3 tháng 7 năm 2012 này, đề ra yêu cầu mỗi khóa sinh phải đóng góp một bản tiểu sử. Là một người không có địa vị hay thành tích gì đáng kể để viết tiểu sử của mình, tôi chỉ mạo muội tâm tình với bằng hữu đôi chút về “cái tôi đáng ghét” của mình mà thôi, với ước mong những người bạn cùng khóa niệm tình chia sẻ.
Tôi ra đời vào năm Canh Thìn, cầm tinh con rồng, cho nên tôi mơ giấc mơ hải hồ, được bay cao bay xa như ông Saint Exurpéry (tác giả cuốn Vol de Nuit và cuốn Le Petit Prince). Sở dĩ tôi thỏa được giấc mộng của mình là vì nhờ Hoa Kỳ tham gia cuộc chiến Việt Nam, họ cần đào tạo những phi công cho chiến trường. Nếu không, giấc mơ của tôi sẽ không thành hiện thực, vì tôi chẳng thể nào có tiền để được huấn luyện trở thành phi công. Sở phí đào tạo một người có thể lái máy bay tốn kém rất lớn.
Có hôm tôi hỏi Mẹ tôi, tại sao con tuổi Thìn mà trên giấy khai sinh của con lại ghi năm 1942? Mẹ tôi đáp: “Thời buổi chiến tranh, giấy tờ thất lạc, lại chạy tản cư liên miên, Mẹ phải làm tờ “thế vì khai sinh” và khai trụt tuổi cho con thì nhà trường mới nhận con vào học”. À ra thế! Thảo nào số quân của tôi là 62/600356, lẽ ra phải bắt đầu số 60 để chỉ những lớp người sinh năm 1940. Căn cứ trên tờ “thế vì khai sinh”, chánh quán của tôi là làng Nho Lâm, phủ Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Trú quán là làng Phổ Tây, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên.
Thầy (Bố) tôi là bác sĩ, được đổi đi công tác nhiều tỉnh khác nhau, nên tôi có thể bắt chước người giúp việc trong nhà để nói các giọng Bắc, Nam, Trung.

Năm 1945, Thầy tôi qua đời vì căn bệnh ruột dư (Appendicitis) được bác sĩ giáo sư Huard của trường Đại Học Y Khoa Hà Nội - một danh y thời bấy giờ - giải phẫu. Không may Thầy tôi bị nhiễm trùng mà không có thuốc trụ sinh vì cuộc chiến tranh giữa Đồng Minh và Quân đội Nhật hoàng xảy ra. Mẹ tôi lúc bấy giờ mới 38 tuổi, khá đẹp, mà nhất quyết ở vậy thờ chồng nuôi con, chứ không chịu bước thêm một bước nữa, mặc dầu có nhiều đàn ông xứng đáng đến ngỏ lời cầu hôn bà.

Tôi là đứa bé khá ngờ nghệch, được Mẹ cho đi học thì cắp sách đến trường; chứ không hề biết học để làm gì? Tôi chưa từng có ý niệm rằng học để trở nên người hữu dụng cho tương lai xứ sở. Do đó, cuối niên khóa được lên lớp là do sự may mắn, hơn là do sự cố gắng bản thân. Khi lên lớp Đệ Lục, tôi nghe Mẹ tôi nói một câu làm tôi tỉnh ngộ: “Gắng học đi con để sau này ấm vào thân. Nếu cứ lười biếng thì sau này chỉ có nước đứng đường thôi con ạ!”. Đứng đường tức là làm người ăn mày lạy ông đi qua, lạy bà đi lại; chứ không phải là làm thầy đội Cảnh sát đứng đường điều khiển cho xe cộ lưu thông!
Từ đó, tôi tỉnh ngộ và bắt đầu thời điểm đó, tôi chăm chỉ học, nên cuối niên học nào tôi cũng đều được lĩnh phần thưởng về các môn Toán, Lý Hóa, Anh, Pháp văn, Việt văn. À, cũng xin nói thêm, trước kia, làm cho xong một bài luận quốc văn là một cực hình đối với tôi. Nhưng nhờ học thêm Pháp văn với thầy Trần văn Thông, gần nhà thờ Phủ Cam - Huế, được thầy dạy pháp cú “analyse logique, analyse grammaticale” khiến cho tôi viết câu văn tiếng Việt sáng sủa hơn với đầy đủ chủ từ, động từ và túc từ. Ông bà mình nói không sai: “Không thầy, đố mày làm nên!”. Mỗi khi viết một bài văn nào, tôi đều nhớ ơn thầy Trần văn Thông.
Nhân đây, tôi cũng xin nhắc lại một việc: Mẹ tôi là người thầy dạy vỡ lòng cho tôi về chữ Hán và chữ Pháp. Câu Hán văn và Pháp văn mà Mẹ tôi muốn xây dựng con người tôi như sau: “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” (Giàu không tham, nghèo không hèn, mạnh không sợ) và “Gravez les bienfaits sur le marble; les malfaits sur le sable” (Khắc ghi những nghĩa cử trên đá cẩm thạch; những điều bội bạc trên cát). Suốt đời tôi cố gắng thể hiện cung cách ứng xử trong cuộc sống như lời Mẹ dạy.
Kết quả thi Trung học Phổ thông, Tú tài I hay Tú Tài II, tôi đều đậu bình, một phần do may mắn! Nghiệm ra, tôi không đến nỗi đần, mà chỉ phải tội chậm trí khôn. Vào trường đời, tôi cũng thuộc loại chậm trí khôn, vì không biết cách làm đẹp lòng thượng cấp, mặc dầu chưa bao giờ kiếm cớ thoái thác một phi vụ nào do căn bệnh … lạnh cẳng.
Nhớ có lần tôi đã phạm vào một điều dại dột trong cuộc họp hành quân. Đó là lúc tôi đứng lên phản đối cấp trên lấy tên chiến dịch Cầu Không Vận là “Kỳ Duyên Mai” (phương danh của đương kim Tư Lệnh, con và vợ). Theo tôi, đáng lý ra phải lấy tên của một vị anh hùng trong lịch sử dân tộc đặt tên cho chiến dịch thì mới đúng! Do “sự cố” ấy, tôi được bạn hữu trong đơn vị đặt cho cái hỗn danh “Đặng văn Ẩu” vì dám công khai “chống” lại thượng cấp. Thật tình, tôi chưa hề làm “ẩu” điều gì để phạm vào quân phong quân kỷ! Tôi lên tiếng vì lợi ích chung. Chẳng qua, nghĩ mình cứ hành xử như lời Mẹ dạy mà thôi.
Tôi có một người Mẹ tuyệt vời, hết lòng thương con, nhưng tôi đã phạm vào ba trọng tội mà tôi nghĩ rằng mình là đứa con bất hiếu. Lòng tôi cứ dằn vặt, ăn năn, hối hận, ray rứt khôn nguôi. Đó là:
Thứ nhất, Mẹ tôi muốn tôi theo học ngành y khoa để nối nghiệp thân phụ tôi. Theo bà, nghề bác sĩ giúp con bà cứu nhân độ thế để hưởng phước. Tôi đã gia nhập vào Không Quân, trái với ước nguyện của Mẹ hiền.
Thứ hai, Mẹ tôi đã thể theo lời xin của tôi để dạm hỏi cô nữ sinh học trò của tôi cho tôi, nhưng cuối cùng tôi đã phản bội nàng để kết hôn với người khác. Tôi đã làm cho Mẹ tôi trở thành kẻ bội ước với thông gia.
Thứ ba, cuối tháng Tư năm 1975, tôi đã không ép Mẹ tôi bằng cách “cưỡng bức” bà lên xe để thoát ra khỏi nước, chỉ vì bà nói bà không muốn bỏ nắm xương nơi quê người. Mẹ tôi đã qua đời trong đói lạnh, cô đơn ở quê nhà. Tôi đã khóc òa như một đứa bé khi hay tin Mẹ mình khuất núi.
Hơn 37 năm sống ở quê người, tôi ao ước có dịp về nước, đến trước mộ phần của Mẹ để nói lời tạ tội. Nhưng bởi lo ngại an ninh bản thân, tôi cứ chần chừ vì đã viết nhiều bài đăng trên mạng lên án gắt gao chống lại chính sách cai trị tàn ác của chế độ hiện hành. Tháng 8 năm 2011, có lẽ cuộc nhân duyên giữa vợ chồng chúng tôi đã dứt, tôi liều mình về quê nhà để thể hiện sự sám hối của mình trước vong linh Mẹ.
Khi về đến phi trường Nội Bài, Hà Nội, tôi “được” hai cán bộ an ninh văn hóa “trao đổi” hơn 90 phút và ba ngày sau tại khách sạn cũng “được” nhân viên an ninh chiếu cố hơn 4 giờ đồng hồ. Tôi sẽ tường trình nội vụ này vào một dịp khác. Từ Hà Nội, tôi gọi điện thoại cho một người bạn học từ thời tiểu học báo tin tôi đang ở Hà Nội. Bạn tôi ban đầu không tin, vì nghĩ rằng tôi không dám về.
Đúng thế! Từ lâu tôi không về nước vì vợ tôi ngăn cản. Nàng sợ nhỡ tôi bị bắt giam thì nàng sẽ phải tốn tiền để chuộc tôi ra. Nay, duyên nợ giữa nhau đã dứt. Nàng không còn trách nhiệm gì với bản thân tôi, nếu tôi về để bày tỏ sự hối hận với vong linh Mẹ mà bị bắt giữ thì tôi cũng cam lòng.
Bạn tôi biết đích xác tôi đang ở Hà Nội, sau khi nhìn vào “caller ID” hiện ra trên điện thoại của anh. Bạn tôi nói (xin lặp lại nguyên văn ngôn ngữ địa phương Huế): “Mi có về Huế thăm mộ O (tức Mẹ tôi) thì nhớ gọi cho hắn nghe!”. Chữ “hắn” trong câu nói của bạn tôi là vị hôn thê mà tôi đã bội tình thưở trước. Anh bạn cho tôi số điện thoại của nàng. Có số điện thoại được bạn cho, tôi vẫn không dám gọi nàng, vì tự hỏi: “Gọi để nói gì bây giờ? Nhỡ khi nghe mình xưng tên, nàng sẽ thốt lên những lời xỉ mắng vì sự bội bạc của mình hoặc nàng cúp máy không thèm nói chuyện thì bẽ bàng vô cùng”.
Hai ngày sau, bạn tôi gọi và hỏi: “Mi đã gọi cho hắn chưa?”. Tôi đáp: “Chưa!” Bạn tôi có vẻ nôn nả: “Tại răng mi không gọi cho hắn?”. Tôi nói về lý do sự ngại ngùng do dự của tôi, bạn tôi cười: “Mi còn nhớ đến chuyện hai đứa bây đi xem bà thầy bói Bụi không?”. Tôi đáp: “Chừ mi nhắc thì tau mới nhớ, nhưng có liên quan gì trong việc tau gọi điện thoại cho hắn?”. Bạn tôi trả lời một cách quả quyết: “Hắn còn yêu mi và chờ mi về đó. Tính đến nay đã là 38 năm kể từ ngày hắn ly dị chồng hắn. Tau đã giới thiệu mấy thằng bạn giáo sư đồng nghiệp của tau cho hắn mà hắn không bằng lòng đứa nào hết. Hắn nhất quyết đợi ngày mi trở về đó. Mi hãy mau mau mà gọi cho hắn đi”. Nói xong một hơi dài, bạn tôi cúp máy điện thoại.
Hồi tưởng lại chuyện quá khứ. Năm 1963, chúng tôi sửa soạn làm đám cưới. Hôn thê của tôi kéo tôi đi xem bói bà thầy bói Bụi, vì bà nổi tiếng bói rất đúng. Chiều lòng người yêu, tôi cũng đi, nhưng tôi chẳng bao giờ tin nhảm. Sau khi hỏi tuổi tác chúng tôi, bà thầy gieo quẻ, rồi đoán: “Cuộc hôn nhân của hai anh chị sẽ không thành!”. Nghe bà thầy nói thế, gương mặt người yêu tôi tái đi, còn tôi tỏ ra giận dữ: “Bà thầy nói bậy, chúng tôi yêu nhau, cha mẹ hai bên đều đồng ý. Lý do nào mà bà nói không thành? Tôi đập mu rùa của bà bây giờ!”. Bà thầy bình thản trả lời: “Chừng nào cuộc hôn nhân của hai anh chị thành thì anh trở lại đây đập mu rùa của tôi cũng chưa muộn!”. Trước sự quả quyết của bà thầy bói, vị hôn thê của tôi khóc nức nở. Tôi xoa lưng nàng và trấn an: “Bói toán nhảm nhí, em tin làm gì?”. Có lẽ cảm động vì những giọt nước mắt của người yêu tôi, bà thầy nói: “Tình duyên của hai anh chị phải trải qua một đoạn đường dài chia ly rồi mới thành tựu. Anh này có đi cùng vành non nước đi nữa thì sau tứ tuần hoa giáp, anh cũng sẽ trở về với chị thôi!”. Đang bực tức vì lời tiên đoán của bà thầy làm người yêu tôi khóc, tôi hỏi: “Tôi không rành chữ Nho. Bà nói tứ tuần hoa giáp là nghĩa lý gì?”. Bà thầy lại bình thản giải thích: “Hoa giáp là 12 năm, tứ tuần hoa giáp là 48 năm. Tôi quả quyết rằng 48 năm sau anh sẽ về tác hợp tình duyên với cô này”.
Tôi vẫn cho rằng bà thầy bói nói nhảm. Nhất định không tin. Chẳng ngờ cuộc hôn nhân giữa hai chúng tôi bất thành. Vì tuổi trẻ thiếu bản lĩnh, tôi đã phạm vào một trọng tội mà thâm tâm tôi không bao giờ dụng ý phản bội ý trung nhân của tôi. Khi tôi thú nhận với vị hôn thê của tôi rằng tôi trót rơi vào một tình trạng khó xử, nàng nói trong nước mắt: “Số trời đã định vậy, em chấp nhận hy sinh”. Tôi quá hổ thẹn trước tấm lòng quảng đại, vị tha của người yêu. Tôi quá xót xa cho nàng, nhưng chẳng biết làm sao hơn.
Tuân theo lời khuyên của bạn, tôi bấm số điện thoại gọi cho nàng và hy vọng không bị nàng buông những lời nói phũ phàng hay gác máy không thèm tiếp. Khi tôi nói tôi là ai qua máy điện thoại thì đầu dây phía bên kia có tiếng cười thật tươi reo lên: “Anh đó à? Anh về rồi đó à? Em đây! Đúng 48 năm rồi đó anh hí!”.
Năm 1963 tôi chia tay nàng. Năm 2011 tôi lần đầu tiên gọi điện thoại cho nàng từ Hà Nội đúng 48 năm sau. Không còn do dự gì nữa, khi về Huế lạy tạ lỗi vong linh Mẹ, tôi sẽ tìm gặp người yêu xưa. Nếu định mệnh dun dủi, tôi có cơ duyên sẽ tiếp nối cuộc sống còn lại với người vợ (sắp cưới) đầu đời thì cũng là ý trời. Tôi nghĩ thế! Bốn mươi tám năm trước tôi thú tội với người yêu, nàng không một lời trách móc, giận hờn. Bốn mươi tám năm sau gọi điện thoại thăm người yêu xưa, nàng đã không buông lời giận hờn trách móc mà còn reo lên một cách sung sướng giống như người thiếu phụ chờ chồng sau cuộc vạn lý trường chinh.
Gặp người yêu xưa, tôi đã quỳ xuống xin lỗi nàng và xin nàng rộng lòng tha thứ. Nàng vội cầm lấy hai tay tôi và nâng tôi đứng dậy, rồi ôm tôi một cách âu yếm nồng nàn. Xưa nay, tôi chưa bao giờ được nàng ôm chặt đến như thế. Trong giờ phút ấy, trước mắt tôi, nàng là hiện thân của Phật Bà Quan Âm hay Đức Bà Maria. Vì chỉ có con người bao dung thánh thiện mới tha thứ cho tôi một cách dễ dàng như thế!
Tôi kể cho nàng nghe chuyện tôi và vợ tôi đang trong tiến trình ly dị. Người yêu tôi nhẹ nhàng khuyên: “Anh hãy cố gắng về hòa giải với chị. Cả hai đã ở tuổi ngoài 70, chẳng còn sống được bao lăm! Em thui thủi một mình gần 40 năm nên quen rồi! Chỉ khi nào sự cố gắng hòa giải của anh bất thành, anh bị ruồng rẫy, hất hủi, gục ngã thì em sẽ vực anh đứng dậy! Chưa lúc nào em giận anh vì em tin cái số em như thế! Chưa lúc nào em thôi yêu anh!”
Sau cuộc chia tay giữa hai chúng tôi, nàng ngày ngày đi dạy học, nuôi Mẹ già và đứa em bị bệnh tâm thần. Nàng quyết sẽ không kết hôn với bất cứ ai. Nhưng cuối cùng nàng phải vâng lời yêu cầu của Mẹ vì nàng là người con chí hiếu. Nàng đành kết hôn với một người mà nàng không hề yêu. Tiếc thay! Người đàn ông ấy mắc chứng bệnh ghen tuông một cách kỳ lạ. Anh ta nhiều lần bạo hành với vợ một cách tàn nhẫn vì nghĩ rằng nàng còn ngoại tình trong tư tưởng, nghĩa là còn yêu tôi. Riêng tôi, tôi không hề liên lạc với nàng bằng dưới mọi hình thức nào để nàng yên thân bên chồng, bên con.
Không thể chịu đựng nổi người chồng vũ phu, nàng về sống với Mẹ và ly hôn chồng. Tin tưởng vào lời tiên đoán của bà thầy bói, nàng cương quyết chờ tôi. Chưa lúc nào tôi tin vào thuyết định mạng hay duyên nghiệp như thế, sau khi gặp gỡ nàng. Giả sử chồng nàng biết cách xử sự như một người có văn hóa đối với vợ thì dù không yêu chồng, nàng cũng không ly hôn vì cổ tục hoặc lễ giáo Huế không bao giờ chấp nhận người đàn bà ly dị chồng. Giả sử vợ chồng tôi có chuyện bất hòa dù nặng nề đến đâu, tôi cũng không thể bỏ vợ. Chẳng qua bị vợ xua đuổi, sỉ nhục mà tôi không thể chấp nhận là do số trời đã định đoạt để cho tôi trở về quê nhà và được biết người yêu xưa vẫn chờ mình. Bốn mươi tám năm sau tôi trở về quê để bái lạy hương hồn Mẹ tha thứ, tôi lại được người yêu xưa tha thứ. Biết đâu Ơn Trên đã dẫn đưa hai anh em chúng tôi về lại với nhau như bà thầy bói năm xưa đã dự đoán? Tôi rất ao ước được sống phần đời còn lại bên người yêu xưa. Chúng tôi không phải là hai kẻ bỏ vợ bỏ chồng để lấy nhau ở tuổi xế chiều. Chúng tôi trở về với nhau do sự an bài của định mệnh hay duyên nghiệp, tùy theo tín ngưỡng của mỗi người.
Tôi không ghi xuống đây chức vụ của mình từng đảm nhiệm trong quân ngũ, vì tôi nhớ đến Đặng Trần Thường, kẻ phò Nguyễn Ánh đắc thắng, đã hành xử thiếu quân tử đối với kẻ ngã ngựa vì mối thù trước kia. Thường ra câu đối buộc kẻ bại trận phải đáp:
Ai công hầu, ai khanh tướng. Trong trần ai, ai dễ biết ai?”. Ngô Thời Nhậm, kẻ phò vua Quang Trung trả lời:
“Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu. Gặp thời thế, thế thời phải thế!
Đặng Trần Thường có cái vẻ vênh váo của kẻ chiến thắng với cái chức vị công hầu khanh tướng của mình. Trái lại, Ngô Thời Nhậm không tỏ ra hèn vì thua trận. mà phải khúm núm xin tha tội. Chẳng qua cái thời cái thế xoay vần xui nên đấy thôi!
Cái thời, cái thế, cái định mệnh, cái duyên nghiệp đã khiến cho chúng tôi đánh mất nhau. Rồi cũng chính cái thời, cái thế, cái định mệnh, cái duyên nghiệp đưa chúng tôi về lại với nhau. Tôi quỳ xuống xin lỗi người yêu xưa của tôi không phải tại vì tôi hèn, mà tại vì tôi sám hối và tôi ngưỡng mộ tấm lòng bao dung, cao cả, vị tha của nàng đã tha thứ cho tôi.
Nghĩ cho cùng, công hầu hay khanh tướng như Đặng Trần Thường tỏ ra kiêu hãnh, đối với tôi cũng chỉ là trò bãi biển nương dâu, chỉ là phù vân gió cuốn mây trôi. Tôi cho rằng cách ứng xử độ lượng giữa người với người với nhau mới là vĩ đại. Tôi rời Houston, Texas để về định cư tại Quận Cam của California. Bạn bè, bà con giúp đỡ tôi rất nhiều nên chỉ trong một thời gian rất ngắn tôi đã thu xếp cuộc sống tạm gọi là ổn định với đầy đủ tiện nghi. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành của tôi đến tất cả bà con, bạn bè. Xin xác nhận rằng câu nói “Ở hiền gặp lành” của tiền nhân rất chính xác. Tôi đã được bà con, bạn bè giúp đỡ tận tình. Mỗi ngày tôi đều đọc Kinh Chú Đại Bi và đọc sách Phật để thấm nhuần lẽ vô thường của Tạo Hóa. Bài kinh sám hối đọc từ thưở còn là đồng niên Phật tử Gia đình Chơn Tuệ tôi vẫn nhớ:
“Đệ tử kính lạy Đức Phật Thích Ca, Phật A Di Đà, thập phương chư Phật cùng Thánh, Hiền, Tăng. Đệ tử lâu đời lâu kiếp, nghiệp chướng nặng nề, tham giận, kiêu căng, si mê, lầm lạc. Ngày nay nhờ Phật, biết sự lỗi lầm, thành tâm sám hối. Thề tránh điều dữ, nguyện làm việc lành … Ngửa trông ơn Phật, từ bi gia hộ, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, ngày ngày an vui tu tập, phép Phật nhiệm mầu để mau ra khỏi luân hồi …”
Thiết nghĩ, chỉ có tình yêu thương gồm có lòng bao dung, sự quảng đại, tính vị tha, tình lân tuất thương yêu kẻ nghèo khó, hoạn nạn là trên hết mọi sự trên đời, vì nó giúp ta quên được cái “NGÔ vị kỷ thì tự khắc mình sẽ cảm thấy hạnh phúc trong đời.
Thưa tất cả bằng hữu,
Tôi đang hành trì đạo Từ Bi của Đức Phật. Xin các bạn cầu nguyện cho tôi có ý chí bền bỉ. Xin cảm ơn tất cả. Xin cầu nguyện gia quyến của mọi người đều được an vui, hạnh phúc.
Bằng Phong Đặng văn Âu, chiều Chủ Nhật, ngày 12 tháng 2 năm 2012.

Dưới đây là bài viết của người yêu đầu đời của tôi và cũng là người vợ hiện thời của tôi.

NẾU CÓ KIẾP SAU …

Tháng 8 năm 1963, tôi xách chiếc va-li nhỏ vào trường Sư phạm Quy Nhơn trước sự ngạc nhiên của bạn bè cùng lứa: “Con Hồng mà học Sư phạm Quy Nhơn ni à?…”.

Vâng, các bạn tôi không ngạc nhiên sao được, khi con bé Hồng tuy nhà quê, nhưng khi vào trường nữ trung học Đồng Khánh, từ Đệ thất đến Đệ nhị luôn giành ngôi vị đứng nhất lớp; chỉ khi qua Đệ nhất Quốc học mới chịu đứng thứ hai, (nên dỗi không đi lãnh phần thưởng — thật là trẻ con!). Thành tích học ấy là niềm mơ ước của các phụ huynh khá giả hồi đó để mong đưa con vào trường Dược, trường Y. Và chính tôi cũng từng ôm mộng như thế, nên khi vào lớp Đệ tam tôi đã không chọn ban Văn chương (ban C) dù tôi rất thích và khá giỏi hai môn Anh và Pháp ngữ, mà ghi vào ban Vạn vật (ban A), vì ông anh Cả ở Sài Gòn ra thăm bố mẹ tôi, biết thành tích học của tôi, nên hứa sẽ “nuôi” cho tôi học Dược ở Sài Gòn. Thế là tôi chúi đầu vào “gạo” Vạn vật và Lý Hóa để chuẩn bị được cầm cái bằng Tú tài II, hầu bước vào Đại học. Tôi vui mừng bay ngay vào Sài Gòn (với tấm vé mà cha tôi phải mượn tiền để mua). Nhưng oái ăm thay, ông anh Cả tôi đã quên lời hứa, kèm lời phán của bà chị Dâu: “O Hồng con gái học chi cho lắm, chỉ ích lợi mai sau chồng nhờ, thôi để tiền nuôi chú T (em trai tôi) …” Và khi tôi trở lại Huế thì đã quá muộn để ghi tên vào phân khoa Đại học, chỉ còn Sư phạm Quy Nhơn nhận đơn, tôi ghi danh thi và đậu ngay.
Các bạn ơi! Giờ đây tôi kể dông dài như trên không phải là nhằm mục đích khoe mẻ thành tích của người về già còn tiếc nuối cái quá khứ học giỏi của mình (để làm gì cơ chứ?!), mà chỉ để các bạn biết cho lòng tôi miễn cưỡng thế nào khi vào Sư phạm Quy Nhơn — buồn tủi vì cha mẹ nghèo không đủ tiền cho con học cao, lại tự ái và sỉ diện hão với bạn bè cùng lớp — tôi đã từng ray rứt với ý muốn bỏ trường bỏ bạn, rời xứ dừa sau mỗi biến cố của đời tôi. Nhưng ân tình sâu đậm của Thầy, của bạn mà tôi sắp kể dưới đây đã gắn số phận tôi với trường Sư phạm, với nghề giáo thân thương mà đến nay tôi rất đỗi tự hào.
Hai năm học ở trường Sư phạm Quy Nhơn tôi đã phải gánh chịu hai cái đại tang — hai cái tang quá lớn trên đôi vai gầy của một cô gái ngây thơ bé bỏng. Có lẽ linh cảm điều đó không vui cho tương lai của tôi, nên chuyến tàu lửa mang tôi vào xứ dừa thật ảm đạm, tiếng bánh xe sắt của con tàu đều đặn lăn trên đường rầy hòa với tiếng chong chóng quay ầm ào của hai chiếc trực thăng hộ tống vần vũ trên đầu toa xe (đề phòng VC tấn công).
Nhập học tháng 9 thì một chiều tháng 12, tôi được điện tín báo tin cha tôi qua đời vì đột biến. Sóng biển, hàng dương bên trường than khóc cùng tôi suốt đêm. Các bạn nội trú xúm xít an ủi vỗ về tôi. Trong đầu tôi lởn vởn ý tưởng về Huế rồi sẽ không quay trở lại vì mục đích học Sư phạm của tôi là vừa có học bổng, vừa chóng ra trường có tiền để giúp cha già không còn nữa. Nay cha mất rồi thì tôi học tiếp ở đây làm gì? Về Huế sang năm thi vào Đại học Sư phạm hoặc học SPCN để chuẩn bị vào trường Y khoa.
Sáng hôm sau, bạn bè cùng phòng nội trú, cùng lớp và cảm động nhất là thầy Lương, Hiệu trưởng, cùng tiễn tôi tận chân cầu thang lên máy bay. Thầy xoa đầu tôi an ủi thật trìu mến như cha tôi thường làm với tôi. Thầy còn cử anh Võ trị Hà, người trưởng tràng, lại là hàng xóm của tôi tháp tùng theo tôi để đại diện trường phúng điếu cha tôi và giúp đỡ tôi trở về trường. Anh Hà cũng thích vì được dịp về thăm Mạ. Nhìn xuống sân bay tôi thấy mái tóc thầy như bạc thêm, cùng những cánh tay vẩy vẩy của bạn bè mờ đi sau làn nước mắt. Trước ân tình ấy, ý nghĩ sẽ bỏ trường bỏ lớp bỗng tan biến trong đầu. Tôi trở lại trường tìm vui trong tình thương của thầy, của bạn. Tôi lại vô tư gây cười cho các bạn, thường tự xưng mình là Hồng Thất Công (trong Thần Điêu Đại Hiệp) khi ngồi trên lầu hai, lầu ba mà dùng tài đánh hơi của lão “Cái Bang” đoán trúng phóc trưa nay Mệ Huế cho ăn món gì, khiến các bạn phục lăn và cười như “nắc nẻ” khi xuống tới phòng ăn. Tại đây, cả nhóm ăn lại nhỏng nhẻo với Mệ Huế là không ăn được cá ngừ, cà nướng … v…v.. Tội nghiệp Mệ Huế lại trìu mến sai đổi cho thành món chả trứng, cá thu chiên … Thế là các nàng dù là Hoàng Dung xinh đẹp, dù là “Phật tổ” Như Lai, dù là nàng Tôn Nữ Âu Dương Phong e lệ … (biệt hiệu của các bạn cùng phòng nằm cạnh giường tôi) đều ăn ào ào như tằm ăn rỗi, đem soong vào xin thêm cơm. Các chị bếp vui vẻ xới thêm rất tự nhiên để các cô khỏi thẹn, chỉ một nhát xúc của chiếc đũa bếp to như cái “xẻng xúc đất” là đủ đầy soong cơm. “Kílô” của các nàng tăng vùn vụt, vì sáng nào cũng “nhón” sạch hai thúng khoai lang luộc, bánh ú của hai nhóc con bác cai đội lên bán. Khỏi rao, khỏi mời, hai chú đã được các nàng ngóng từ thật xa, rồi đón ở cầu thang và thoáng một chốc chỉ còn hai cái thúng không. Các chú chỉ việc ngồi chờ, một lát sau các nàng đem tiền ra trả đủ. “Này chị hai xâu (khoai)…, này chị hai cặp (bánh ú) …”. Các nhóc chỉ việc đếm tiền, xong đội thúng ra về. Hỉ hả!!! Giành nhau mua vậy, nhưng ai chậm chân không mua được đều có phần chia cho. Vui như hội! Ăn, ngủ, cười và … chờ thư. Chỉ khi nào đọc thư người yêu thì mỗi nàng lui về một thế giới xa xôi với khóc, cười, trăn trở…
Nhưng số phận lại không mỉm cười với tôi vào năm sau, tôi lại chịu cái đại tang thứ hai. Lần này không phải là vành khăn trắng lên mái tóc, mà là mảnh khăn đen vắt qua “con tim vừa vui trở lại” của tôi: Người yêu của tôi, mối tình đầu trong sáng của tôi, vị hôn phu của tôi đã phụ tình tôi. Đời phi công hào hoa, đời lính cận kề bên cái chết, cùng với thái độ tránh né giữ gìn thái quá của người con gái Huế như tôi, cộng thêm không gian xa cách, khiến chàng sa ngã vào ánh sáng phù hoa, vào niềm đam mê vội vã mà nói lời bội ước với tình xưa. Trước lời thú nhận đã lỡ lầm của vị hôn phu, dưới sự chứng kiến của gia đình hai bên, dù mẹ chàng cố nói ra lời hàn gắn, nhưng tôi đã bình tĩnh chúc chàng hạnh phúc (không một giọt nước mắt van vỉ, không một lời oán trách hờn ghen), vì tôi nghĩ rằng bất cứ thái độ nào khác cũng sẽ đánh đổ thần tượng của chàng trong tôi. Và tôi cũng không cần một chút nào lòng thương hại của kẻ khác. “Người ta phụ mình, nhưng làm sao cho người ta vẫn tôn trọng mình”, tôi nghĩ thế.
Từ Sài Gòn trở lại Quy nhơn với con tim băng giá, với đôi mắt ráo hoảnh, tôi lại có ý nghĩ bỏ Sư phạm, rồi về Huế ghi danh học Đại Học để trở thành một bác sĩ, hơn hẳn người ta” cho bõ tức. Nhưng anh lớp trưởng nhận ra nỗi buồn vời vợi trong tôi. Chờ lớp về hết, anh ở lại hỏi tôi “Sao em có vẻ buồn thế?”. Anh lớp trưởng đã có vị hôn thê ở Quảng trị và xem tôi như người em gái nhỏ. Tôi cũng xem anh như anh mình, nên khi anh hỏi chạm đến vết thương lòng, tôi đã òa lên khóc nức nở và kể cho anh nghe về mối tình tan vỡ của mình. Anh để yên cho tôi khóc, rồi dùng lời an ủi động viên tôi. Sau đó anh cùng các bạn trong lớp tổ chức nhiều chuyến du ngoạn ngoại thành: thăm Tháp Chàm ở Quy nhơn, trại cùi Quy hòa, viếng mộ Hàn Mặc Tử… , để tôi thấy nhiều cảnh khổ gấp bội mình. Rồi chuyến đi về Tuy Phước, thăm sâu vào làng quê Bình Định với những phong cảnh thật nên thơ, nhưng thấp thoáng những bộ quần áo đen lầm lũi (VC đó). Thấy thật rùng mình, may mà có anh trong đoàn, sinh trưởng ở vùng đó nên không việc gì. Rồi những phút cùng các bạn nội trú lầu ba ôm nhau lăn xuống gầm giường khi VC tấn công nổ bom tự sát làm sập lầu Việt Cường dưới phố (nơi có binh lính Mỹ đến đó ăn uống sau mỗi cuộc hành quân). Khi lầu hết rung chuyển, chúng tôi cùng chui ra một cách khó khăn gấp bội so với khi chui vào. Thầy Giám học lên bảo: “sao lại chui xuống gầm giường, sao không chạy xuống núp trong các hố cát ngoài sân, nhỡ lầu sập thì sao?” Thì ra khi hoảng hốt, chúng tôi đã hành động giống như những con đà điểu rúc đầu vào cát lúc gặp hiểm nguy. Nhưng nằm trong hố cát ở sân nhìn lên trời càng đáng sợ hơn: những lằn đạn xanh đỏ bay vèo vèo trên bầu trời do VC tấn công vào thành phố, bên ta chiến đấu đẩy lui. Thế là cái khổ, cái chết lại giúp tôi gắn bó với trường với bạn, chúi mũi tìm quên trong việc học, uống từng lời dạy dỗ của thầy cô để ra trường với hạng thủ khoa (mà các bạn cứ trêu là “thủ khôi” khiến tôi hờn giận mãi — thật là trẻ con!). Tôi được chọn giữ ở lại trường làm giáo sư hướng dẫn các khóa sau, nhưng tôi chỉ muốn về Huế để được sống bên mẹ già.
Rồi chính nhờ được làm một cô giáo hiền hòa, mẫu mực mà tôi đã vượt qua những nghiệt ngã của số phận do sự đối xử hà khắc của gia đình chồng và những tai ương của đất nước tạo nên. Môn tâm lý giáo dục của thầy Mẫn dạy tôi biết nói những lời ái ngữ với học trò trước khi phê bình cái sai của chúng. Nhớ lời thầy, tôi không bao giờ phê “chữ cẩu thả” mà “em cần viết cẩn thận hơn”, hoặc không phê “vở nhớp quá” mà là “vở sạch mới đẹp”…
Những năm dạy tiểu học, trong cặp tôi lúc nào cũng có hộp kim chỉ để khâu áo cho những em nào nhỡ rách, có cả lượt dày để chải chí cho mấy em gái nghèo thiếu bàn tay mẹ chăm sóc, có cả kéo để cắt tóc cho các em khỏi bị tóc che mắt…

Khi được chuyển về trường cấp II Thuận An thì nơi đây là quê hương thứ hai che chở giúp tôi vượt qua những khổ ải do gia đình chồng đọa đày. Lúc phải rời bỏ gia đình chồng do bị đàn áp quá đáng, các phụ huynh ở Thuận An đã đùm bọc, an ủi xoa dịu cho tôi những vết thương từ thể xác đến tâm hồn. Thậm chí có người mở lời cho tôi và hai con vượt biên cùng con của họ mà không phải đóng một cắc bạc, nhưng tôi không thể bỏ mẹ già và cậu em bị tâm bệnh để ra đi. Các học sinh của tôi đều mê môn Văn tôi dạy, phải chăng do tôi đã trao truyền cho các em tất cả tình cảm thương yêu và trải nghiệm của bản thân vào trong mỗi bài giảng? Thời bao cấp, nhà giáo đều thiếu thốn, nhưng tôi biết tranh thủ thời gian để chạy chợ nuôi mẹ, em và các con no đủ. Thấy các cô giáo mà phải vất vả ngược xuôi, các cô dì chủ hàng cũng thương, dành cho sự nhẹ nhàng, ưu ái. Một số bạn tôi bỏ nghề, vì nghề giáo cơ cực quá, nhưng tôi thì không. Tôi nghĩ rằng nhờ giữ nghề dạy học mà một người mẹ đơn thân như tôi mới có thể giáo dục các con chăm ngoan, thành đạt và có cuộc sống gia đình hạnh phúc hơn bố mẹ chúng. Tôi cảm thấy lời Phật dạy “sống từ bi, hỉ xả” như thấm từ lúc nào vào cuộc đời làm cô giáo của tôi, tự nhiên như cây cỏ hấp thụ khí trời. Tôi không hề oán hận ai, thậm chí cả với người đã hành hạ mình.
Có lẽ cuộc đời nhà giáo của tôi chỉ biết gieo nhân lành nên cuối đời gặp quả ngọt: người yêu đầu đời của tôi đã trở về quỳ xuống xin tạ tội vì đã để đời tôi bấy lâu chịu khổ đau. Anh đã đón tôi sang đất nước Hoa Kỳ để tôi được sống sung sướng quãng đời còn lại. Tôi được học sinh cũ của trường Trung học Thuận An từ nhiều tiểu bang về chào mừng hoặc gọi điện thăm hỏi, dẫn cô đi thăm thú cảnh đẹp nhiều nơi . Ôi, còn gì sung sướng hơn khi thấy những học sinh bé bỏng ngày xưa của mình, giờ đây đã trở thành những trung niên khôi ngô, thành đạt, những thiếu phụ xinh đẹp, lịch lãm nơi xứ người. Vậy mà đối với cô giáo cũ, các em vẫn một tiếng “thưa” hai tiếng “dạ” rất đỗi lễ phép, khiến lòng tôi cảm thấy xúc động nao nao, tự hào về mình và về các học sinh thân yêu. Tôi còn được gặp lại các bạn nội trú trường Sư phạm Qui nhơn ngày xưa, nay các nàng đều xấp xỉ ở ngưỡng “thất thập cổ lai hi”, nhưng vẫn xinh đẹp, vẫn yêu đời và nhất là tình bạn vẫn nồng nàn, thắm thiết như xưa. Phải chăng, nhờ ngành Sư phạm mà vẻ đẹp truyền thống của nền văn hóa Việt nam vẫn nở hoa trên xứ người!

Chính vì thế, như đầu bài viết, tôi có kể lể là tôi miễn cưỡng thi vào trường Sư phạm, thì nay tôi xin sửa sai để khẳng định: Nếu có kiếp sau, tôi lại cố gắng học để được thi vào ngành Sư phạm, được làm một cô giáo mẫu mực, dịu hiền, để trao hết tri thức và tình cảm yêu thương của mình cho thế hệ mai sau: gieo những nhân lành nhằm tạo quả ngọt cho đời.

Nguyễn thị Hồng, Khóa 2 SPQN


Tuesday, April 7, 2020


ATTENTION: THE URGENT WARNING

THE YELLOW PERIL FROM RED CHINA IS COMING.


LỜI BÁO ĐỘNG NGHIÊM TRỌNG:
HỌA DA VÀNG ĐANG ĐẾN
Hỡi những người bạn Da Đen,
Da Đỏ, Da Trắng và Latino thân mến,
Lời nói đầu: Không chắc có thể sống sót sau trận Đại Dịch Vũ Hán, tôi phải vội viết ngay bức thư này vì sợ không còn cơ hội cảnh báo với nhân loại về tai họa diệt chủng.
Kính thưa các bạn,
Tôi tên là Đặng văn Âu, bút hiệu Bằng Phong, nguyên là một chiến sĩ của nước Việt Nam Cộng Hòa, từng chiến đấu chống lại Chủ nghĩa Cộng sản. Tôi là một người Việt Nam thuộc giống dân Da Vàng viết thư này gửi đến các bạn để báo cho các bạn biết mối Họa Da Vàng từ lục địa Trung Hoa đang tới. Vì tôi là người Da Vàng, nên tôi đem nỗi lo lắng của tôi để báo động cho các bạn, thì các bạn không thể kết tội tôi kỳ thị chủng tộc. Chính người dân Tàu ở Đài Loan, Tân Gia Ba, Hongkong hay Tiến sĩ Gordon Chang gốc Tàu, học giả của Viện Gateston, cũng tố cáo chính sách lươn lẹo, gian xảo, trộm cắp của Trung Cộng để đoạt cương vị bá chủ hoàn cầu. Tôi ý thức rằng tôi viết bài báo động này là tính mạng của tôi sẽ gặp hiểm nguy. Nhưng tôi vẫn dám hy sinh, vì tôi mang ơn các bạn thuộc mọi sắc dân đã tạo dựng nên quốc gia Hoa Kỳ đầy tấm lòng nhân loại, cho tôi có chỗ dung thân và nuôi dưỡng con cái đến tuổi trưởng thành.
Tổ tiên chúng tôi gồm một trăm (100) bộ tộc sống dọc bờ sông Dương Tử, bị người Tàu thuộc dòng giống Hán tiêu diệt, chỉ còn một bộ tộc Việt Nam sót lại, nằm nép mình bên bờ biển Thái Bình Dương cũng không được cộng sản Trung quốc buông tha.
Hoàng Đế Napoléon Bonarparte của nước Pháp đã báo động từ thế kỷ 18 về mối Họa Da Vàng. Giống Da Vàng mà Hoàng Đế Bonarparte đề cập đến là nước Trung Hoa có dân số đông nhất thế giới, thường trực mang cơn đói khát thôn tính các quốc gia khác; chứ không phải như người Nhật. Tổ tiên người Trung Hoa đã nhồi nhét vào đầu óc con cháu họ tư tưởng “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, tự coi quốc gia mình là trung tâm thế giới và các dân tộc chung quanh đều là man di, mọi rợ.
“Bình Thiên Hạ” của người Tàu, nghĩa là thống trị toàn thế giới dưới sự đô hộ độc tài của Bạo Chúa. Cho nên, nước Tàu đã xâm lăng và gồm thâu các tiểu quốc, rồi đồng hóa dân tộc các tiểu quốc thành công dân nước Tàu. Nước Tàu có nền văn minh lâu đời, nhưng bị Tây phương vượt qua, vì nước Tàu không có những nhà hiền triết hướng thượng để đưa nhân loại tiến tới văn minh, mà chỉ có loại quân sư nhiều mưu mẹo sát hại kẻ thù như Khổng Minh hay loại thầy đồ rao giảng cách làm đầy tớ trung thành với vua chúa như Khổng Tử. Ngay cả Lưu Á Châu, vị Trung tướng Không Quân đang tại chức của Trung Cộng, cũng đã viết rằng dân Tàu có máu độc ác, tham lam.
Chủ nghĩa cộng sản là một tại họa cho nhân loại, đã bị thế giới lên án về tội diệt chủng. Thực tế đã cho thấy cái chủ nghĩa ấy chỉ mang lại nghèo đói, bất công, thối nát, tham nhũng và lừa đảo, dối trá, phi nhân. Chủ nghĩa cộng sản tàn ác ấy nhập vào nước Tàu thì cái ác tăng lên gấp trăm lần.  Chính Tổng Bí thư Liên Xô, Nikita Khrushchew cũng đã nhận thấy cái ác, cái phi đạo đức của chủ nghĩa Cộng sản. Nên năm 1960, Đại Hội 20 của đảng Cộng sản Liên Xô mới đề ra chủ trương Xét Lại, chấp nhận “Chung sống hòa bình” (Peaceful co-existence) với Tư Bản. Bởi vì nếu chiến tranh nguyên tử xảy ra thì cả hai bên đều bị hủy diệt.
Thế nhưng, Mao Trạch Đông cậy mình có hơn một tỉ dân, nên không sợ chiến tranh nguyên tử với Mỹ. Mao Trạch Đông cương quyết chống lại chủ trương “Chung sống hòa bình”, nên Mao đã thẳng tay trừng trị những đồng chí thân tín trong cuộc “vạn lý trường chinh” có xu hướng xét lại. Tại sao? Bởi vì làm lãnh đạo trong chế độ cộng sản thì nhà lãnh đạo có quyền bắt buộc nhân dân sùng bái mình như Thượng Đế và không một ai được phép đòi hỏi quyền làm người. Chứng cớ là Mao giữ ngôi cho tới chết!
Sau Tháng Tư năm 1975, nước Mỹ đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo gồm có những Tướng lãnh Việt Mỹ và những trí thức tiếng tăm của Mỹ lẫn Việt để tìm hiểu nguyên nhân vì sao Mỹ, một cường quốc số #1 thế giới, đã thua trận bởi một nước nhược tiểu.
Tôi không thấy một Tướng lãnh nào hoặc một nhà trí thức nào có nhận định giống như sự lý giải của cá nhân tôi:
Mao Trạch Đông xua quân Bắc Triều Tiên vượt vỹ tuyến 38 xâm lăng Nam Triều Tiên thất bại, vì không thể chiến thắng quân Mỹ có vũ khí tối tân. Cho nên, Mao lập kế hoạch phải đánh Mỹ trên chiến trường Việt Nam bằng cuộc chiến tiêu hao, vì Mao biết dân Mỹ quý mạng người và không đủ kiên nhẫn trong cuộc chiến tranh lâu dài. Chính Trung Cộng tiết lộ Mao đã cho một sĩ quan cấp Tá tên là Hồ Quang trong Đệ Bát Lộ Quân giả dạng Hồ Chí Minh, bí danh của nhà hoạt động cách mạng Việt là Nguyễn Tất Thành, để lãnh đạo cuộc chiến tranh chống Mỹ. Nếu Hồ Chí Minh là người Việt thì đã không thi hành mệnh lệnh Mao một cách đắc lực và tàn ác để tiêu diệt nòi giống Việt Nam.
Sau khi quân đội Việt Minh chiến thắng trận Điện Biên Phủ, hội nghị Genève diễn ra để giải quyết vấn đề chiến tranh Đông Dương. Tại sao Trung Cộng muốn chia đôi Việt Nam thành hai miền, mà không để cho Bộ đội của Hồ Chí Minh tiếp tục đánh đuổi quân đội Pháp đã kiệt quệ ra khỏi Đông Dương? Tại vì Trung Cộng biết Mỹ sẽ nhảy vào Miền Nam để dùng Miền Nam làm tiền đồn ngăn chặn làn sóng Đỏ thì Mao mới có thể dùng chiến tranh tiêu hao để đánh bại quân đội Mỹ và chia rẽ nội tình chính trị Mỹ. Quả nhiên, nội bộ nước Mỹ chưa bao giờ gặp nạn chia rẽ trầm trọng như trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, chắc hẳn quý vị còn nhớ?
Lý do nào khiến cho tôi suy luận như trên? Câu nói của Mao Trạch Đông: “Đảng ta sẽ đánh bại Hoa Kỳ cho tới giọt máu cuối cùng của người Việt Nam” là bằng chứng Trung Cộng dùng chiến trường Việt Nam để đánh Mỹ và bằng chứng thứ hai là lời thú nhận làm tay sai cộng sản của Lê Duẩn, Tổng Bí thư đảng cộng sản Việt Nam: “Chúng ta (tức là Việt Cộng) đánh Pháp, đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, cho Trung Cộng”.
Trên danh nghĩa, cuộc chiến vừa qua là cuộc chiến giữa Bắc – Nam Việt Nam. Nhưng thực chất, nó là cuộc chiến tranh giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng, tức là giữa Cộng sản và Tư Bản. Hoa Kỳ bỏ rơi Miền Nam là mở màn sự thất bại của Thế giới Tự do.
Chiến lược của Hoa Kỳ hoàn toàn sai lầm, khi quan niệm rằng cuộc chiến tranh này không có kẻ thắng người bại. Sở dĩ tướng Douglas McAthur chiến thắng trong trận chiến Triều Tiên vì ông đổ bộ quân trên đất bắc Triều tiên đánh xuống phía Nam và xua quân từ nam Triều Tiên đánh ngược lên để ép quân cộng sản Triều Tiên và chí nguyện quân Trung Cộng vào giữa, cắt đường tiếp tế của Trung Cộng. Trong khi ấy, cuộc chiến ở Miền Nam Việt Nam thì quân đội Hoa Kỳ bị trói tay, không sử dụng được chiến thuật tốc chiến tốc thắng của đạo quân tinh nhuệ nhất thế giới. Cho nên, Việt Cộng mới dám huyênh hoang tuyên bố chúng sẽ chiến thắng Hoa Kỳ tại Thủ đô Washington DC; chứ không tại chiến trường. Tôi dám nói rằng Hoa Kỳ có vũ khí tối tân vô địch, nhưng mưu lược thâm hiểm không bằng người Tàu được rèn luyện trong lò Karl Marx – Lénine.
Phong trào chống chiến tranh ở Hoa Kỳ không phải tự phát, mà là do những đảng viên cộng sản Hoa Kỳ bí mật điều động và yểm trợ. Đồng thời phong trào đòi hòa bình ở Việt Nam cũng do Việt Cộng giật dây, bởi vì bọn chống chiến tranh không đòi Việt Cộng rút quân về Miền Bắc, mà chỉ đòi quân đội Miền Nam buông súng!
Nội tình chính trị của Mỹ bất ổn. Cùng lúc Tổng thống Richard Nixon bị rắc rối vì vụ Watergate, nên bằng lòng thương nghị với Mao Trạch Đông để giải quyết chấm dứt chiến tranh trong hòa bình. Hoa Kỳ quyết định rút quân năm 1973 là chuẩn bị một cuộc đầu hàng trong danh dự. Nhưng kỳ thực là một cuộc đầu hàng trong tủi nhục.
Lúc bấy giờ có một số chính khách Hoa Kỳ chống lại chủ trương của Nixon bắt tay Trung Cộng. Ngoại trưởng Henry Kissinger tuy là người có bằng Tiến sĩ sử học, nhưng đã quên Mao Trạch Đông từng cực lực chống lại chủ trương “Chung sống hòa bình” của Khrushchev. Kissinger đưa ra quan điểm rằng nếu nâng cao mức sống giai cấp bần cố nông của Trung Cộng thành giai cấp tư sản trung lưu, thì chủ nghĩa cộng sản mặc nhiên sẽ biến mất. Đó là quan điểm có tính sách vở, hàn lâm. Chính sách cốt lõi của cộng sản là bần cùng hóa nhân dân, biến nhân dân thành trại súc vật và lãnh tụ có quyền hành tuyệt đối, bất khả xâm phạm.
Các nhà tư bản của các đại công ty nghe thuyết lý của Kissinger, thì mường tượng một thị trường đông dân nhất thế giới được tự do buôn bán với Tư bản thì sẽ là một thị trường béo bở, tha hồ kiếm lời. Bởi vậy, những nhà máy sản xuất đua nhau rời bản quốc để sang Trung Cộng làm ăn, mà không cần biết họ làm cho công nhân đất nước họ bị thất nghiệp và nền kinh tế dần dần lệ thuộc vào sản phẩm của Trung Cộng. Những nhà tư bản Tây phương đều biết Trung Cộng sử dụng tù nhân làm đội ngũ sản xuất mà không được trả lương và không bảo hiểm y tế, nhưng họ mặc kệ. Điều kiện để đầu tư vào Trung Cộng, các công ty phải trao cho Trung Cộng những phát minh kỹ thuật cao, họ cũng chấp nhận, bất cần biết sẽ nguy hại nền an ninh quốc phòng của quốc gia.
Lãnh đạo Việt Nam, Tổng thống Ngô Đình Diệm, là người thấy được mối nguy của người Tàu trong công cuộc chống lại chủ nghĩa cộng sản. Cho nên sau khi diệt xong quân phiến loạn do Thực dân Pháp xúi giục, Tổng thống Diệm ra luật cấm người Tàu làm một số nghề, bắt buộc họ phải nhập quốc tịch Việt Nam để tuân hành luật lệ Việt Nam. Nếu người Tàu nào không tuân lệnh thì bị trục xuất ra khỏi nước. Đó không phải là chính sách kỳ thị chủng tộc. Ông Diệm biết người Tàu có máu gian thương, buôn lậu và chuyên môn hối lộ quan chức công quyền, làm cho guồng máy cai trị bị thối nát.
Người Mỹ không chịu học hỏi bài học Việt Nam, lại giết vị lãnh đạo nhìn xa trông rộng của chúng tôi thì ngày nay Hoa Kỳ phải hứng lấy tai họa Da Vàng.
Khi Trung Cộng giàu lên, chúng bèn dùng tiền để mua các nhà truyền thông của thế giới tự do làm công cụ tuyên truyền của chúng. Nhà báo nào nói đến những mặt tiêu cực của Trung Cộng, liền bị Trung Cộng trục xuất. Ngoài ra, Trung Cộng còn dùng phương pháp hối lộ tinh vi của mình để mua chuộc những chính trị gia Tây phương thành những Dân biểu, Nghị sĩ, Tổng thống vô tình làm công cụ bành trướng của chúng.
Năm 2008, bà Hillary Clinton vừa khóc, vừa nói: “Sở dĩ bà không được đảng Dân Chủ đề cử tranh chức Tổng thống, vì truyền thông chống bà và ủng hộ Barack Hussein Obama”. Bà Hillary nói đúng: Barack Obama chỉ là một “Community leader”, mới đắc cử Thượng Nghị sĩ chưa đầy hai năm thì kinh nghiệm chính trường không thể bằng bà. Truyền thông trở nên kiêu ngạo vì đưa được một người vừa có gốc Hồi giáo, vừa là đệ tử của lãnh tụ cộng sản – Frank Marshall Davis – lên làm Tổng thống. Truyền thông tự cho mình là “King maker”, muốn uốn nắn tư tưởng quần chúng thế nào tùy thích. Mặc dầu Tiến sĩ Peter Navarro (tác giả cuốn sách Death By China) và một số học giả đã viết sách để báo động cho những nhà chính trị nước Mỹ về âm mưu của Trung Cộng lật đổ ngôi vị lãnh đạo Thế giới Tư bản của Mỹ bằng con đường bá đạo, như ăn cắp sản phẩm trí tuệ, buôn lậu ma túy, buôn người, cài gián điệp vào các cơ quan, hối lộ các Đại Học, Truyền thông vẫn không thèm lưu ý, thì buộc lòng ta phải cho rằng Truyền thông đã bị Trung Cộng hối lộ.
Vì nhận thấy đạo đức chính trị suy đồi, kinh tế xuống dốc, uy tín nước Mỹ trên trường  quốc tế bị coi khinh, nên nhà tỷ phú Donald J. Trump phải từ bỏ nếp sống vương giả để ra tranh cử Tổng thống nhằm cứu nước Mỹ, tức là cứu nguy thế giới tự do.
Là người bị mất nước vào tay cộng sản, là người được nước Mỹ cưu mang, tôi có bổn phận phải đem kinh nghiệm mất nước của mình nói với trí thức Mỹ. Nhưng nghĩ mình là người không tên tuổi, dù mình có gióng lên tiếng nói cũng chẳng ai thèm nghe. Bởi thế, tôi đã viết nhiều bức thư cho Tiến sĩ Stephen Young, một Phó Khoa trưởng Luật của trường Đại học Harvard, rồi Khoa trưởng Luật của trường Đại học Hamline của Tiểu bang Minnesota để nhờ ông báo cho những nhà trí thức Hoa Kỳ biết tình hình chính trị Hoa Kỳ rất giống Việt Nam Cộng Hòa trước khi mất vào tay Việt Cộng.
Lý do tôi trông cậy vào Tiến sĩ Stephen Young vì ông là người có vợ Việt Nam, từng làm việc ở Việt Nam, nói và viết tiếng Việt rất giỏi, rất quan tâm đến tương lai Việt Nam, từng trở lại Việt Nam vận động dân chủ, nhưng thất bại, thì còn ai có đầy đủ kinh nghiệm hơn về nguyên nhân Việt Nam bị mất vào tay cộng sản? Tiếc thay! Tiến sĩ Stephen Young giữ im lặng. Tôi ngờ rằng ông ta là đảng viên đảng Dân Chủ?!
Tôi rất thích nền chính trị lưỡng đảng của Hoa Kỳ, hoạt động giống cái quả lắc đồng hồ (pendulum) không cực tả hay cực hữu, luân phiên nhau cầm quyền và đề cao nguyên tắc “If you can not beat them, join them” là sức mạnh đoàn kết của nước Mỹ. Nhưng ngày nay, đảng Dân Chủ không còn là đảng đối lập, mà là một đảng phá hoại, học theo đường lối cộng sản là mị dân, dối trá, bịa đặt, vu khống, bạo hành và đặt quyền lợi của đảng lên trên quyền lợi của Tổ quốc. Đảng Dân Chủ biện minh thế nào, khi chủ trương mở cửa biên giới, cho di dân bất hợp pháp được hưởng các quyền lợi và được quyền đầu phiếu như một công dân? Khi mở cửa biên giới, làm sao có thể cấm cán bộ cộng sản Tàu tràn vào hoạt động tự do? Có phải đảng Dân Chủ âm mưu đẩy nước Mỹ theo chế độ độc tài toàn trị cộng sản để triệt tiêu nền dân chủ mà tổ tiên họ đã dựng lên?
Năm 2016 đảng Dân Chủ đã dự phòng cuộc “đảo chánh” (coup d’état) bất cứ ứng cử viên Cộng Hòa nào đắc cử Tổng thống. Nếu Jeb Bush, Ted Cruz hay Marco Rubio đắc cử cũng đều bị đảng Dân Chủ tìm cách truất phế; chứ không riêng ông Donald Trump.
Trung Cộng lo ngại Nga liên minh với Mỹ thì giấc mộng Da Vàng thống trị thế giới của mình sẽ không thành. Vì vậy, Trung Cộng đã dùng thế lực đồng tiền mua chuộc chính trị gia Dân Chủ, Cộng Hòa và Truyền thông kết tội Tổng thống Donald Trump thông đồng với Nga. Chủ trương chia rẽ là chiến lược trường kỳ bất biến của cộng sản.
Gần hai năm điều tra, tiêu 40 triệu tiền thuế của dân, phe cánh đảng Dân Chủ không tìm ra chứng cớ để buộc tội Tổng thống Donald Trump, thì họ xoay sang vụ Ukraina. Nghĩa là đảng Dân Chủ phải dùng mọi cách, dù phi pháp, để lật đổ vị Tổng thống do dân bầu hợp pháp cho bằng được.
Đặt trọng tâm vào việc luận tội Tổng thống Donald Trump, đảng Dân Chủ không có thời giờ để soạn thảo một cương lĩnh làm thăng tiến đời sống nhân dân. Nghe những lời vận động tranh cử Tổng thống của các ứng viên Dân Chủ , người ta thấy họ chỉ tìm cách mỵ dân như tăng thuế nhà giàu, miễn phí Đại học cho sinh viên, miễn phí y tế cho mọi người kể cả di dân bất hợp pháp, phụ nữ được quyền phá thai sắp tới kỳ sinh nở … Những ứng viên dần dần rơi rụng, nhà tỷ phú Bloomberg tiêu hơn 600 triệu đô la cũng bỏ cuộc. Chỉ còn lại hai ông già gần 80 tuổi, mà ông cựu Phó Tổng thống thì nói năng lắp bắp, vấp váp lung tung, còn một ông thì hình như mắc chứng tâm thần, vì hăng say cổ súy xã hội chủ nghĩa, trong khi cái chủ nghĩa ấy đã bị nhân loại ném vào thùng rác!
Hoa Kỳ là quốc gia vĩ đại vì nó mở ra cơ hội đồng đều cho mọi chủng tộc trên thế giới muốn thể hiện giấc mơ Mỹ. Bất cứ ai thông minh, chăm chỉ đều thành đạt. Tổng thống Barack Hussein Obama đưa ra khẩu hiệu “Black life matters” chỉ nhằm thu hút phiếu của người Da Đen. Vì dưới thời Obama, mức nghèo khó của người Da Đen, nạn thất nghiệp và tội phạm của người Da Đen đều gia tăng. Đảng Dân Chủ và Truyền thông cánh tả chỉ lặp đi lặp lại một điệp khúc “Donald Trump Kỳ thị chủng tộc” để tổng công kích Tổng thống Donald Trump. Thậm chí Tổng thống Trump dùng chữ “Wuhan Virus” cũng bị phía Dân Chủ và Truyền thông cánh tả ồn ào rộ lên điệp khúc “Trump kỳ thị chủng tộc” và buộc Tổng thống xin lỗi Cộng đồng người Hoa!
Thưa các bạn thuộc các sắc dân,
Bài nói chuyện của Tướng Trì Hạo Điền (Chi Haotian), cựu Bộ trưởng Quốc Phòng đăng trên tờ báo Epoch Times từ ngày 3 tháng 7 năm 2009 dưới tựa đề War Is Not Far from Us and Is the Midwife of the Chinese Century” với đại ý như sau: “Dân tộc Trung Hoa là dân tộc thượng đẳng, có nền văn minh cổ đại trước cả Tây phương, thì dân tộc Trung Hoa phải thống trị thế giới. Đối tượng cần hủy diệt là Hoa Kỳ. Đức Quốc Xã thất bại vì tin vào Thiên Chúa, ngần ngại nhúng tay vào tội ác. Đảng Cộng sản chúng ta vô thần, không sợ phạm tội ác thì nhất định ta sẽ thắng lợi. Nhưng chúng ta không thể dùng khí giới nguyên tử để đánh Mỹ, vì nó sẽ hủy diệt tất cả. Chỉ cần dùng vũ khí sinh học (biochemical weapon) đủ để giết người Hoa Kỳ và đưa người Trung Hoa sang chiếm cứ toàn bộ đất đai và dinh thự của họ”.
Khi tin tức nạn Corona Virus nổ ra ở Vũ Hán, tôi liền nhớ ngay đến bài nói chuyện của Trì Hạo Điền đăng trên tờ Epoch Times. Tuy không hoạt động trong lãnh vực tình báo, phản gián, nhưng với kinh nghiệm về cái ác của cộng sản, tôi quả quyết rằng Wuhan Virus là âm mưu của Trung Cộng nhằm trả đòn những cú đấm kinh tế của Tổng thống Donald Trump. Dưới đây là luận cứ của tôi:
(1) Công An Trung Cộng ở Wu Han bắt bỏ tù bác sĩ Lý về tội tiết lộ bị mất quốc gia khi ông này khám phá bệnh viêm phổi là do vi khuẩn Corona. Nếu “Corona Virus do thiên nhiên, không phải là vũ khí sinh học, thì sao gọi là bí mật quốc gia?
(2) Trung Cộng không đồng ý đề nghị của Tổng thống Donald Trump gửi đoàn chuyên viên y tế sang Vũ Hán giúp truy nguyên vi khuẩn Corona, vì sợ Hoa Kỳ khám phá ra nguyên nhân mầm bệnh.
(3) Thời gian xảy ra nạn dịch vào Tết Nguyên Đán là thời điểm người dân Tàu ở tứ xứ về quê ăn Tết sẽ được biến thành đoàn quân phát tán vi khuẩn khắp thế giới.
(4) Giữ bí mật nạn dịch cho tới khi không thể giấu thế giới đấy là thủ đoạn để mua thời gian để phát tán sự lây nhiễm đã cùng khắp.
Ngoài ra, Trung Cộng ra điều kiện các quốc gia Âu Châu muốn được tiếp tế thuốc và dụng cụ y tế thì phải mua 5G của công nghệ Huawei, thì càng làm cho chúng ta càng tin cái vụ Wuhan Virus xảy ra là do âm mưu của Trung Cộng sử dụng vũ khí sinh học.
Thời Đệ nhị Thế chiến, Tổng thống Roosevelt ra lệnh nhốt tất cả những người Mỹ gốc Nhật vào trại tập trung, truyền thông và chính trị gia đối lập đã không hề có một lời phản đối. Thế mà, nay giữa lúc quốc gia đang trong cảnh dầu sôi lửa bỏng, bị nạn dịch xuất phát từ Trung Cộng hoành hành, Tổng thống Donald Trump dùng chữ “Wuhan Virus” thì Truyền thông tả phái và chính trị gia Dân chủ tấn công tới tấp, vu cho Tổng thống kỳ thị chủng tộc và buộc Tổng thống phải xin lỗi Cộng Đồng người Hoa. Sự kiện này cho mọi người hiểu Dân Chủ và Truyền thông tả phái đứng về phía Trung Cộng. Cái gì ngoài đồng tiền của Trung Cộng, một chế độ diệt chủng, đảng Dân Chủ và Truyền thông tả phái tự nguyện làm công cụ cho quyền lợi của Trung Cộng? Xin những nhà lãnh đạo Dân Chủ trả lời cho chúng tôi, những người đã bị mất nước vào tay cộng sản?
Thưa tất cả những người bạn thuộc các sắc dân thân mến,
Người Tàu Đài Loan, Hongkong, Singapore không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản của người Tàu lục địa. Do đó, quý vị đừng nghĩ rằng vì tôi là nạn nhân cộng sản mà đâm ra có tinh thần kỳ thị người Tàu. Chủ nghĩa cộng sản là một tôn giáo của quỷ. Nó có khả năng làm mê muội những nhà trí thức thông thái. Nó có khả năng làm cho Tổ chức WHO làm công cụ dối trá cho nó. Nó có khả năng dụ dỗ Đức Giáo hoàng Francis chấp nhận Giáo hội Công Giáo Quốc Doanh và phủ nhận Giáo hội thầm lặng. Nước Việt Nam Cộng Hòa của chúng tôi bị mất vào tay cộng sản, bởi vì dân tộc chúng tôi bị quỷ ám.
Tôi nhận thấy nước Mỹ cũng đang bị quỷ ám. Bởi vì nước Hoa Kỳ được dựng lên bởi những người con có Đức Tin Thiên Chúa “In God We Trust” thì lý gì lại có những nhà lãnh đạo chính trị muốn đẩy dân chúng đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, một chủ nghĩa chống Thiên Chúa? Ai có thể tin được câu nói của bà Chủ tịch Hạ viện Nancy Pelosi – một tín đồ Công giáo từ nhiều đời – bảo rằng bà luôn luôn cầu nguyện cho Tổng thống Donald Trump, trong khi bà ủng hộ phá thai và kịch liệt chống lại chủ trương “Make America Great Again”? Có phải bà cầu nguyện Thiên Chúa giúp cho bà lật đổ Tổng thống Donald Trump thành công?
Tôi là một tín đồ Phật giáo, nhưng tôi tin rằng tai họa “Wuhan Virus” là một cảnh báo của Thiên Chúa nhằm thức tỉnh nhân loại hãy đoàn kết lại để chống hiểm họa Da Vàng. Nên biết rằng, đây là thời điểm đánh dấu cuộc chiến đấu một mất một còn giữa Thiện và Ác, giữa Sự Thật và Sự Dối Trá, giữa Ánh Sáng và Bóng Tối. Sự sống còn của nhân loại là tùy thuộc vào sự quyết định sáng suốt của quý bạn.
Tôi không là đảng viên Cộng Hòa hay Dân Chủ, nhưng tôi mong muốn nhân dân Hoa Kỳ hãy bầu cho Tổng thống Donald Trump vào ngày 3 tháng 11 này để ông có đủ thời gian thanh toán cái Nhà Nước Ngầm (Deep State) quá thối nát mà vẫn đang tìm mọi cách chiếm quyền lãnh đạo nhân dân Hoa Kỳ.
Tôi xin khẳng định rằng nếu ông Donald Trump tiếp tục làm chủ tòa Bạch Ốc và các vị dân cử đảng Cộng Hòa chiếm đa số lưỡng viện Quốc hội thì nước Mỹ còn thịnh vượng về kinh tế và hùng mạnh về quân sự để chống lại tham vọng của Trung Cộng. Nếu ngược lại, nước Mỹ sẽ bị Trung Cộng khống chế, đè bẹp. Lúc bấy giờ, không một quốc gia nào khác, kể cả nước Nga, đủ sức thoát ra khỏi sức nặng của 1 tỷ 4 trăm triệu dân Da Vàng.
Xin các bạn hãy tỉnh ngộ, hãy sáng suốt trước khi quá muộn.
Trân trọng chào tạm biệt các bạn,
Bằng Phong Đặng văn Âu
Telephone number: 714 – 276 – 5600
Email Address: bangphongdva033@gmail.com
Ngày 07 tháng 4 năm 2020

https://khongquanc130.blogspot.com/2020/04/attention-urgent-warning-yellow-peril.html