Search This Blog

Thursday, July 21, 2022

PHAN TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH

 

Hồ sơ về Tướng Dương Văn Minh

Phạm Văn Hùng

Nhận định của Bằng Phong Đặng văn Âu: Dưới đây là tài liệu về Tướng Dương văn Minh do phía Hà Nội viết (tất nhiên đề cao Dương văn Minh), nhưng ít nhất cho ta biết khả năng địch vận của Việt Cộng. Tôi từng nói cuộc xâm lăng của Việt Cộng không chỉ đơn thuần trên phương diện Quân Sự. Đó là cuộc chiến tranh toàn diện: Chính trị, Tôn giáo, Tình báo.

Việt Cộng có thể dựng một ông Tướng Việt Nam Cộng Hòa – Dương văn Minh – trở thành một thủ lĩnh đảo chính Việt Nam Cộng Hòa, Quốc trưởng (năm 1963) và Tổng thống (năm 1975). Việt Cộng cũng có thể dựng một Tướng Việt Nam Cộng Hòa khác – Hoàng Cơ Minh – trở thành thủ lĩnh Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam và sử dụng Mặt Trận ở Hải ngoại giống như Việt Cộng đã dùng Dương văn Minh ở Sài Gòn. Tôi đã nghi ngờ Kinh Tế Gia Nguyễn Xuân Nghĩa – cháu ruột của Tổng Bí thư Mười Cúc Nguyễn văn Linh – khi anh ta được Phạm Dương Hiển , Tham vụ Ngoại giáo VNCH giới thiệu cho Mặt Trận. Tôi đã cảnh báo cho Đại sứ Bùi Diễm, một lãnh tụ Đại Việt, từng giao du thân mật với Nguyễn Xuân Nghĩa nhưng ông không quan tâm, bởi vì các chính trị gia phía VNCH có tính chất tài tử, hơn là chuyên nghiệp.   

Tướng Hoàng Cơ Minh phải đi vào “Khu Chiến” là để tránh phải trả lời những câu hỏi của FBI, chứ không phải lên đường cứu nước như Việt Tân tuyên truyền. Việt Cộng đã sử dụng “blackmail” (chantage) để sai khiến Việt Tân phải làm việc cho chúng. Tập Thể Chiến sĩ VNCH là ngoại vi của Việt Tân, để thi hành Nghị Quyết 36, nên Tập Thể chỉ làm công tác của Đại Đội Chung Sự lo việc kéo cờ lên, hạ cờ xuống, phủ cở, xếp cờ (như nhà báo Sức Mấy Đinh Từ Thức chế giễu.

Trước khi thực hiện bất cứ làm một “phi vụ” gì, Việt Cộng “điều nghiên” rất kỹ. Ví dụ, muốn tấn công một đồn bót, Việt Cộng lập sa bàn để thực tập. Khi đưa một nhân vật lên làm Chủ tịch Tập Thể, Việt Cộng cũng “điều nghiên” đặc tính cá nhân đương sự phải là một nhân vật có tính háo danh, nhưng hoàn toàn mù tịt về thủ đoạn của Việt Cộng. Đó là lý do tại sao Tập Thể Chiến Sĩ không làm một tờ báo để lật mặt nạ sự lừa đảo của Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, mà tôi khuyến cáo nhiều lần.

 

 

L.T.S: Hồn Việt số 11 (tháng 5/2008) đã đăng một số ý kiến về Tướng Dương Văn Minh. Đó là một số ý kiến bước đầu quan trọng, giúp ta tìm hiểu sâu hơn một sự kiện lịch sử, một con người. Kỳ này, Hồn Việt xin công bố bản tóm tắt của một công trình nghiên cứu công phu, nhiều tư liệu mới với độ tin cậy cao của ông Phạm Văn Hùng. Hi vọng rằng, với công trình nghiên cứu này, sự kiện về Tướng Dương Văn Minh sẽ được sáng tỏ thêm. Nó chứng minh thêm tầm vóc của ngày 30/4 lịch sử dưới sự lãnh đạo toàn diện, sâu sát, kiên trì… của Bộ Chỉ huy tối cao đứng đầu là Lê Duẩn và của những người trực tiếp tham gia ở chiến trường miền Nam, của Trung Ương Cục miền Nam. Nó cũng chứng tỏ sự phối hợp tuyệt đẹp giữa quân sự - chính trị - địch vận… trong cuộc chiến tranh giải phóng. Nó nói lên sự phong phú vô tận của cuộc sống, của cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc của lòng yêu nước Việt Nam…

Chúng tôi mong nhận được thêm nhiều ý kiến. (HV)

 

https://sachhiem.net/LICHSU/IMG/VNwar/DuongVanMinh.jpg

THÂN THẾ VÀ GIA ĐÌNH

- Ông Dương Văn Minh sinh năm 1916 ở tỉnh Mỹ Tho. Cha là ông Dương Văn Huề, khi đi học mướn lấy tên là Dương Văn Mau (tên của người bà con), làm thầy giáo, sau làm tri phủ, rồi đốc phủ sứ (hàm).

Ông Dương Văn Huề và bà Nguyễn Thị Kỹ có bảy người con: bốn trai, ba gái. Ông Minh là con cả. Dương Thanh Nhựt là con trai kế, có tham gia hoạt động cách mạng từ trước Cách mạng tháng Tám (năm 1944) và suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, là đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam. Dương Thanh Sơn, em trai thứ năm, là sĩ quan chế độ cũ.

Gia đình ông Minh theo đạo Phật, lễ giáo, nề nếp.

- Năm 1940, Dương Văn Minh học trường đào tạo hạ sĩ quan và sĩ quan dự bị của Pháp. Năm 1942 vào quân đội Pháp.

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Dương Văn Minh tham gia lực lượng vũ trang cách mạng chống Pháp xâm lược. Pháp trở lại, gia đình ông Minh tản cư về Chợ Đệm (Tân An). Lần đó, ông về thăm nhà, đơn vị rút đi, ông bị kẹt lại chưa tìm được đơn vị thì bị Tây bắt, buộc ông trở lại làm việc cho quân đội Pháp. Năm 1946, Dương Văn Minh là thiếu úy, đại đội phó quân đội Pháp. Lần lượt lên đến cấp tá, rồi qua Pháp học trường võ bị, là một trong những sĩ quan đầu tiên của quân đội “Việt Nam Cộng Hoà”.

Ông Minh cũng theo đạo Phật, nhân từ, thương người. Sợ sát sinh, sợ phải giết người. Thấy ai bị nạn thì ra tay cứu như can thiệp cho em trai bà Bùi Thị Mè (1) là thiếu tá chế độ cũ bị tình nghi hoạt động cho “Việt Cộng” được thả ra; giúp ông Nguyễn Minh Triết (Bảy Trung), cán bộ của ta và là em bạn dì ruột bị địch bắt giam ở nhà lao Phú Lợi, được ra tù…

- Ông Minh là người rất tự trọng. Sau ngày 30/4/1975, ông được về nhà (98 đường Hồng Thập Tự, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 3) sống với tư cách một “công dân của một nước độc lập” (2). Đời sống khó khăn, ông lại bị bệnh tiểu đường, bị đau dạ dày. Có lúc lãnh đạo Thành phố (đồng chí Võ Văn Kiệt) nhờ bà Bùi Thị Mè gợi ý khéo là Đảng và chính quyền thành phố muốn hỗ trợ ông trong cuộc sống. Nhưng ông Minh từ chối với lý do: “Các anh các chị sống được thì tôi cũng sống được nếu chưa quen thì phải tập lại cho quen”.

Năm 1983, ông Minh được Chính phủ ta chấp thuận để ông sang Pháp trị bệnh và thăm con. Toà Tổng Lãnh sự Pháp ở Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Bộ Ngoại giao Pháp giúp ông Minh vé máy bay và tiền gửi hành lý nhưng ông Minh từ chối, nói rằng “đã có Chính phủ Việt Nam lo rồi”.

Khi đi, ông Minh chỉ xin mang theo một ít đồ cổ trong nhà. Sang Pháp, ông không nhờ vả gì Chính phủ Pháp, không xin trợ cấp xã hội Pháp.

 

QUÁ TRÌNH BINH ĐỊCH VẬN ĐỐI VỚI TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH

Công tác binh địch vận đối với tướng Dương Văn Minh bắt đầu từ năm 1962, với nhiều lực lượng, nhiều ban ngành tham gia: Binh vận Trung Ương Cục, Tình báo, An ninh T4 (Sài Gòn - Gia Định), Trí vận…

1/ Ban binh vận Trung Ương Cục miền Nam

Năm 1960, theo yêu cầu của Ban binh vận Xứ ủy Nam bộ (sau này là Trung Ương Cục miền Nam), đồng chí Võ Văn Thời, Cục trưởng Cục địch vận Tổng Cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam đề nghị và được cấp trên đồng ý điều động đồng chí Dương Thanh Nhựt (3) về Cục để giao nhiệm vụ về miền Nam vận động Dương Văn Minh. Đồng chí Nhựt được đặt bí danh là Mười Ty. Cuối tháng 12/1960, đồng chí Mười Ty lên đường.

Tháng 8/1962, đồng chí Mười Ty móc được với gia đình, trước hết là với ông Nguyễn Văn Di, cậu ruột; qua cậu, móc vợ là Sử Thị Hương, nhắn vợ về thăm mẹ và tìm hiểu thái độ của anh hai Dương Văn Minh. Sau đó Mười Ty thăm em trai là Dương Thanh Sơn, sĩ quan quân đội Sài Gòn và em thứ tám là Dương Thu Vân.

Thấy tình hình thuận lợi, đồng chí Mười Ty hướng dẫn cán bộ mật đem ý kiến của lãnh đạo trao đổi với Dương Văn Minh về việc đảo chính Chính phủ Ngô Đình Diệm. Trong lúc Tướng Minh đang bực tức Ngô Đình Diệm độc tài, gia đình trị, phủ nhận công lao của mình (tảo thanh Bình Xuyên và các giáo phái Hoà Hảo). Tướng Minh hứa sẽ tìm cách làm.

Ngày 01/11/1963, Trung tướng Dương Văn Minh nhân danh Chủ tịch Hội đồng quân nhân cách mạng phát lệnh đảo chính Chính phủ Ngô Đình Diệm và lên làm Quốc trưởng Việt Nam Cộng Hòa lần thứ nhất. Đồng chí Mười Ty nắm được ý định Tướng Minh chuẩn bị đảo chính Diệm và có báo cáo về Ban binh vận Trung Ương Cục.

Sau cuộc đảo chính Ngô Đình Diệm một thời gian, đồng chí Mười Ty có vào nhà Dương Văn Minh (98 Hồng Thập Tự, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai), sau đó qua nhà em là Dương Thanh Sơn ở mười ngày. Qua nhiều lần gặp và trao đổi với Dương Văn Minh, đồng chí Mười Ty cho rằng Tướng Minh trước đây mơ hồ về Mỹ là tên xâm lược, nay thì hết tranh cãi về điều này, nhưng vẫn còn cho là Mỹ có giúp đỡ miền Nam. Tướng Minh hứa hủy bỏ ấp chiến lược, cho nhân dân về nhà cũ với ruộng vườn, mồ mả ông bà.

Trong thời gian làm Quốc trưởng lần thứ nhất. Dương Văn Minh có một số hành động tiến bộ có lợi cho cách mạng:

+ Quyết định hủy bỏ 16.000 ấp chiến lược. Đại sứ Mỹ Cabot Lodge hỏi Dương Văn Minh vì sao làm thế? Ông trả lời, đại ý: Người Việt Nam có phong tục tập quán riêng, không người nào muốn xa rời mảnh đất đã gắn bó đời mình và mồ mả ông cha. Dồn dân vào ấp chiến lược là chủ trương sai, vì lẽ đó tôi giải tán ấp chiến lược để người dân trở về quê cũ của mình.

+ Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Mc Namara và Tướng Harkin yêu cầu Quốc trưởng Dương Văn Minh để cho Hoa Kỳ ném bom ra miền Bắc, không ném ồ ạt mà ném bom nổ chậm trên đê sông Hồng. Miền Bắc sẽ bị lũ lụt mất mùa, người dân sẽ đói… Dương Văn Minh lắc đầu từ chối.

+ Tháng 1/1964, Đại sứ Cabot Lodge yêu cầu Quốc trưởng Dương Văn Minh nghiên cứu, chuẩn y và thực hiện kế hoạch 34A (hoạt động gián điệp, biệt kích chống miền Bắc). Dương Văn Minh không trả lời.

+ Theo lời kêu gọi của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam (4) Dương Văn Minh tỏ ý muốn thương lượng để tuyển cử tự do, thực hiện một chế độ trung lập, lập Chính phủ liên hiệp. Nhưng Mỹ cự tuyệt hòa đàm, chống mọi xu hướng trung lập.

- Do những chủ trương và hành động của Dương Văn Minh không theo đúng ý đồ “Bắc tiến” của Mỹ, theo chỉ thị của Tổng thống Mỹ Johnson, cuối tháng 01/1964, chính quyền Mỹ đã đưa Nguyễn Khánh lên làm Chủ tịch Hội đồng quân nhân cách mạng kiêm Thủ tướng Chính phủ Cộng Hòa Việt Nam bằng một cuộc đảo chính. Nguyễn Khánh tuyên bố: “Tôi đảo chánh Dương Văn Minh để cứu đất nước này khỏi rơi vào tay Cộng sản”.

Mỹ thấy Dương Văn Minh có hậu thuẫn ở miền Nam, nhưng khó điều khiển nên chỉ thị cho Chính quyền Sài Gòn phong Dương Văn Minh làm đại tướng và cử làm đại sứ lưu động ở Đài Loan. Mỹ mời ông Minh qua Mỹ một thời gian rồi cho lưu vong ở Thái Lan (từ đầu năm 1965) có sự giám sát của CIA, làm con bài dự trữ.

Cuối năm 1967, theo chỉ đạo của đồng chí Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh, Phó Bí thư Trung Ương Cục miền Nam) và Ban binh vận Trung Ương Cục, đồng chí Mười Ty có chuyến qua Pháp, ở nhà em rể là Charlot để móc người em gái thứ 8 là Dương Thu Vân qua Pháp. Có thời gian Mười Ty ở nhà Dương Minh Đức (con trai Dương Văn Minh). Được biết, khi người em gái thứ 6 Dương Thu Hà bị ung thư chết, Dương Văn Minh có qua Pháp dự đám tang em gái, sau đó ở lại Pháp hơi lâu, có ý chờ tin của Mười Ty. Nhưng vì bọn CIA bảo trung tá Đẩu (sĩ quan tùy viên của Tướng Minh) kêu ông Minh về Thái Lan, nên không ở lâu hơn được nữa.

Khi chị Dương Thu Vân qua Paris gặp Mười Ty cho hay là ông Minh không thể qua Pháp được nữa, thì Mười Ty mới chuyển kế hoạch qua em (Dương Thu Vân) và cháu (Dương Minh Đức) truyền đạt ý kiến của cấp trên cho Dương Văn Minh. Sau đó Đức báo lại ý kiến của cha anh với Mười Ty như sau: “Lập Chính phủ ba thành phần là khó lắm, cần đánh cho văng Thiệu, Mỹ phải rút đi là hết chiến tranh. Tôi có ra làm chính phủ ba thành phần khi bầu cử thì ông Thọ (Luật sư Nguyễn Hữu Thọ) cũng thắng cử, tôi có thất cử cũng không nghĩa lý gì, miễn có lợi cho đất nước là hơn”. Dương Minh Đức nói thêm: Ba cháu không còn lực lượng, không biết làm chính trị, không giỏi bằng ông Thọ; ra ngoài (ra khu) lúc này là không có lợi, ở trong này khi cần có lợi hơn…

Sau đó, đồng chí Mười Ty về Hà Nội, được đồng chí Lê Duẩn gặp và mời cơm (với đồng chí Võ Văn Thời). Sau khi nghe đồng chí Mười Ty báo cáo đầy đủ chuyến đi công tác ở Pháp, đồng chí Lê Duẩn khen và nói: “Dương Văn Minh trả lời như vậy là thành thật, nói như vậy là làm được, chứ hứa hết có khi không làm được…”

Cuối năm 1970,… theo chỉ đạo của Trung Ương và Trung Ương Cục miền Nam, Ban binh vận Trung Ương Cục tìm một người khác, để tiếp cận vận động Dương Văn Minh. Đó là chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, cơ sở của ta trong sĩ quan là bạn bè và thầy trò có thể tiếp cận được với Dương Văn Minh. Đồng chí Nguyễn Tấn Thành (tức Tám Vô Tư), bác của Nguyễn Hữu Hạnh, được Ban binh vận Trung Ương Cục giao nhiệm vụ trực tiếp nắm và bồi dưỡng cho Nguyễn Hữu Hạnh.

Tháng 3 và 4/1975, đồng chí Tám Vô Tư thường gặp ông Nguyễn Hữu Hạnh. Sau khi Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đồng chí Tám Vô Tư gợi ý ông Hạnh nên tiếp cận và vận động Dương Văn Minh nếu lên làm Tổng thống thì tìm cách kết thúc cuộc chiến có lợi cho nhân dân.

Khi được tin ông Dương Văn Minh lên làm Tổng thống, ngày 28/4/1975, từ Cần Thơ, ông Nguyễn Hữu Hạnh bằng mọi cách, vượt mọi khó khăn lên Sài Gòn gặp Dương Văn Minh và được ông giao làm phụ tá Tổng tham mưu trưởng, thay Tổng tham mưu trưởng ở bên cạnh ông, sau đó là Quyền Tổng tham mưu trưởng. Với các cương vị này, ông Hạnh đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện lệnh của Tổng thống Dương Văn Minh làm cho quân đội Sài Gòn “án binh bất động”, tan rã tại chỗ, không nổ súng và thúc đẩy Chính phủ Dương Văn Minh sớm bàn giao chính quyền cho cách mạng.

2/ Thâm nhập vào “nhóm Dương Văn Minh”

Tháng 9/1972, Ban An ninh T4 (Thành phố Sài Gòn - Gia Định) thành lập Cụm điệp báo mới, bí số là A10, với nhiệm vụ xây dựng lực lượng điệp báo bí mật trong một số đối tượng, trong đó có lực lượng thứ ba, đặc biệt là “nhóm Dương Văn Minh”… (các thành viên bộ tham mưu nhóm Dương Văn Minh, ban biên tập bản tin nội bộ nhóm Dương Văn Minh, thư ký tòa soạn báo Điện Tín, báo Đại dân tộc…).

Đầu năm 1975, đồng chí Trần Quốc Hương (Mười Hương), Trưởng Ban An ninh T4, chỉ đạo A10 tìm cách thâm nhập vào lực lượng thứ ba và nhóm Dương Văn Minh để tác động, vận động lực lượng này chống đối, cô lập, chia rẽ chính quyền Nguyễn Văn Thiệu.

Thời gian này, Cụm điệp báo A10 tiếp cận, bám sát “nhóm Dương Văn Minh”, có lúc họa sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành) ở luôn trong nhà Dương Văn Minh; tham gia viết và in tuyên cáo “chống Chính phủ Thiệu không có Thiệu”, đòi Trần Văn Hương từ chức (Tổng thống).

Ngày 01/3 và cuối tháng 3/1975, đồng chí Huỳnh Bá Thành (lần sau có thêm các đồng chí Trần Thiếu Bảo, Huỳnh Huề…) vào căn cứ báo cáo với đồng chí Mai Chí Thọ (Bí thư thành ủy), Trần Thanh Vân (Phó trưởng Ban An ninh T4). Đồng chí Mai Chí Thọ chỉ đạo: “…Phải bằng mọi cách để Dương Văn Minh thay Nguyễn Văn Thiệu, rồi giao chính quyền cho cách mạng. Đó là chủ trương của Đảng nhằm tránh đổ máu, tránh tổn thất cho nhân dân”.

3/ Tác động vào Chính phủ Dương Văn Minh

Cụm điệp báo VĐ2 thuộc phòng tình báo chiến lược M22, cục tham mưu Miền cũng có chỉ đạo vận động tác động nội các Dương Văn Minh đầu hàng thông qua kỹ sư Tô Văn Cang trong những ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn. Theo ông Tô Văn Cang, sáng ngày 28/4/1975, ông Cang đến gặp Đại tá Nguyễn Văn Khiêm (Sáu Trí) ở nhà ông Ba Lễ (cơ sở tình báo) hẻm đường Triệu Đà, Sài Gòn, để báo ý kiến của ông Nguyễn Văn Diệp (trong Chính phủ Dương Văn Minh) muốn tìm gặp đại diện Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam để xin ý kiến xử trí tình hình Sài Gòn. Đồng chí Sáu Trí phân tích tình hình và “khuyên Chính phủ Dương Văn Minh chấp nhận đầu hàng vô điều kiện”. Ý kiến này được ông Cang phản ánh lại cho ông Diệp và sau đó ông Diệp có báo cáo lại cho bộ ba Dương Văn Minh – Nguyễn Văn Huyền – Vũ Văn Mẫu.

4/ Xây dựng lực lượng thứ ba ở đô thị

Sau hiệp định Paris (1973), Hội nghị lần thứ 21 Ban chấp hành Trung Ương (tháng 7/1973) đề ra nhiệm vụ: “Xây dựng lực lượng thứ ba ở đô thị”; “mở rộng hơn nữa Mặt trận dân tộc Giải phóng gồm mọi giai cấp, tôn giáo, lực lượng hòa bình, độc lập, dân chủ ở miền Nam và Việt kiều ở nước ngoài”.

Năm 1974, theo chỉ đạo của đồng chí Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh), Phó Bí thư Trung Ương Cục miền Nam, đồng chí Quốc Hương (Mười Hương), Ủy viên Thường vụ, Trưởng Ban An ninh T4 đã chọn một số thanh niên, sinh viên cài vào hoạt động trong lực lượng thứ ba.

Trên thực tế thì lực lượng ta đã hình thành trước khi có hiệp định Paris qua tổ chức “Lực lượng quốc gia tiến bộ” do luật sư Trần Ngọc Liễng và nhà tư sản dân tộc (ngành vật liệu xây dựng) Phan Văn Mỹ thành lập tháng 6/1969 với mục tiêu là: đòi các lực lượng ngoại nhập (Mỹ và đồng minh) phải rút khỏi miền Nam, thành lập chính phủ hòa giải dân tộc. Sau đó, lợi dụng lúc Thiệu đi nước ngoài, luật sư Trần Ngọc Liễng lập “Lực lượng hoà giải dân tộc”. Sau hiệp định Paris, tháng 02/1974, nhóm luật sư Trần Ngọc Liễng lập “Tổ chức nhân dân đòi thi hành hiệp định Paris”, xác định mình là lực lượng thứ ba, mục tiêu chính là đòi thi hành hiệp định Paris, Mỹ rút quân, thành lập Chính phủ hoà giải dân tộc.

Thành viên của “nhóm Dương Văn Minh” gồm một số trí thức, dân biểu đối lập, ký giả, tướng lĩnh Hằng tuần, nhóm họp bàn về tình hình thời sự chính trị (lúc tình hình sôi động mỗi tuần họp hai lần). Cạnh tướng Dương Văn Minh có Văn phòng báo chí. Lúc báo Điện tín bị đóng cửa, “nhóm Dương Văn Minh” ra bản tin bán công khai để phát cho các tổ chức, đoàn thể, báo chí trong và ngoài nước.

- Theo ông Lý Quý Chung (Hồi ký), tuần lễ đầu tháng 4/1975, tướng Dương Văn Minh và “nhóm Dương Văn Minh” đã họp tại Dinh Hoa Lan (nhà ông Minh) bàn và quyết định công bố ý định thay thế Nguyễn Văn Thiệu để góp phần chấm dứt chiến tranh.

5/ Phối hợp phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân Sài Gòn

Với các khẩu hiệu “đuổi Mỹ, lật Thiệu”, đòi Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đòi thi hình hiệp định Paris, hòa bình, chấm dứt chiến tranh, đòi dân chủ, cải thiện dân sinh… các cuộc xuống đường diễn ra liên tục, mạnh mẽ thu hút hàng ngàn, hàng vạn người. Như cuộc xuống đường của 200 ký giả Sài Gòn ngày 10/10/1974, ngày “ký giả đi ăn mày” lôi cuốn gần hai vạn quần chúng tham gia đã có tiếng vang lớn cả trong và ngoài nước. Cuộc tuần hành ngày 20/4/1974 của hàng vạn công nhân lao động, sinh viên, học sinh, trí thức, thương phế binh… đòi Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đòi thi hành hiệp định Paris, đòi hòa bình, cơm áo, chống sa thải, chống thuế VAT…, là cuộc đấu tranh lớn nhất từ sau hiệp định Paris.

 

MỸ, PHÁP VỚI TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH

* Mỹ: Năm 1971, Mỹ yêu cầu Dương Văn Minh ra tranh cử Tổng thống với Nguyễn Văn Thiệu để tỏ ra chế độ Cộng hòa miền Nam có dân chủ, nhưng phải thất cử để trở thành lãnh tụ của phe đối lập trong nghị viện. Tướng Dương Văn Minh từ chối. Đại sứ Mỹ Bunker còn trắng trợn hỏi ông Minh cần bao nhiêu đô-la cho cuộc tranh cử. Ông Minh cố nén giận, nhưng giữ lịch sự, đưa tay chỉ đại sứ Mỹ về phía cửa phòng (không tiếp đại sứ Mỹ nữa). Cuộc bầu cử đó, Tướng Dương Văn Minh có ra ứng cử, nhưng đến giờ chót quyết định rút lui, chỉ còn Nguyễn Văn Thiệu trở thành ứng cử viên Tổng thống “độc diễn”, làm bẽ mặt Mỹ – Thiệu.

Sau khi Thiệu từ chức, Phó tổng thống Trần Văn Hương lên thay tổng thống, tuyên bố “cương quyết tử thủ dù phải hi sinh đến nắm xương tàn”, đã bị nhân dân và báo chí Sài Gòn đấu tranh đòi Chính phủ Trần Văn Hương từ chức ngay lập tức. Trần Văn Hương trì hoãn việc giao quyền cho Dương Văn Minh, mãi đến ngày 26/4/1975, lưỡng viện Sài Gòn đã bầu Dương Văn Minh làm Tổng thống Việt Nam Cộng hòa với 147/151 phiếu.

* Pháp: Theo đồng chí Phan Nhẫn, ngày 27 (hoặc 28/4/1975), Bộ Ngoại giao Pháp gặp đồng chí Phạm Văn Ba (Giám đốc Trung tâm thông tin Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam) gợi ý Chính phủ Cách mạng lâm thời nên đi vào đàm phán. Lúc đó, Pháp hi vọng “giải pháp Dương Văn Minh” và khả năng thương lượng với Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam.

Theo chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh và ông Lý Quý Chung, sáng ngày 30/4/1975, tướng tình báo Pháp Vanuxem đến Phủ thủ tướng (số 7 Thống Nhất, nay là đường Lê Duẩn) gặp Tổng thống Dương Văn Minh, gợi ý ông Minh nên kêu gọi Trung Quốc can thiệp để cứu miền Nam không rơi vào tay Cộng sản Bắc Việt. Ông Minh từ chối, nói rằng: “Tôi đã từng làm tay sai cho Pháp rồi cho Mỹ, đã quá đủ rồi. Tôi không thể tiếp tục làm tay sai cho Trung Quốc”.

 

TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH VỚI 3 NGÀY LÀM TỔNG THỐNG

15 giờ chiều ngày 28/4/1975, Tướng Minh làm lễ nhậm chức Tổng thống, cử Nguyễn Văn Huyền làm Phó tổng thống, Vũ Văn Mẫu làm Thủ tướng.

Tổng thống Dương Văn Minh cử một số Bộ trưởng và người phụ trách quân đội, cảnh sát, trong đó có đảng viên và cơ sở của ta là: Luật sư Triệu Quốc Mạnh, Giám đốc Nha cảnh sát đô thành, và chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, phụ tá Tổng tham mưu trưởng sau làm quyền Tổng tham mưu trưởng.

Về Bộ quốc phòng, Tổng thống Dương Văn Minh chỉ định Giáo sư Bùi Tường Huân, Giáo sư Đại học Huế (không phải tướng tá) làm Bộ Trưởng. (Theo ông Lý Quý Chung, việc Tổng thống Dương Văn Minh chỉ định ông Bùi Tường Huân làm Bộ trưởng quốc phòng để chứng tỏ chính phủ này không muốn chiến tranh).

17 giờ ngày 28/4/1975, phi đội 5 chiếc A37 của Nguyễn Thành Trung ném bom sân bay Tân Sơn Nhất.

Theo ông Hồ Ngọc Nhuận (Hồi ký), tối hôm đó, Tướng Minh giao cho ông chuẩn bị chiếm đài phát thanh (đề phòng Nguyễn Cao Kỳ làm đảo chính).

Đêm 28/4, Tướng Dương Văn Minh và gia đình dời đến ở nhà một người bạn của tướng Mai Hữu Xuân ở đường Phùng Khắc Khoan do sợ Nguyễn Cao Kỳ ném bom dinh Hoa Lan (nhà ông Minh).

Theo cựu dân biểu Dương Văn Ba (Hồi ký), đêm 28/4/1975, hai đại tá phi công lái hai máy bay trực thăng phục vụ tổng thống đậu trên nóc dinh Độc Lập, gặp Tổng thống Dương Văn Minh đề nghị đưa Tổng thống và tất cả những người trong bộ tham mưu tổng thống và gia đình bay ra Đệ Thất Hạm Đội. Ông Minh trả lời: “Hai em có thể yên lòng lái máy bay ra Đệ Thất Hạm Đội, bất cứ ai có mặt ở đây muốn đi theo thì có thể ra đi. Phần tôi, tôi nhất quyết không đào ngũ bỏ chạy; không thể nào bỏ dân chúng Sài Gòn, không thể nào bỏ miền Nam như con rắn mất đầu”.

Ngày 29/4/1975

Tổng thống Dương Văn Minh, Phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền và Thủ tướng Vũ Văn Mẫu bàn và ra lệnh cho Giám đốc Nha cảnh sát đô thành Triệu Quốc Mạnh thả tù binh chính trị; gửi công văn yêu cầu Đại sứ Mỹ Martin cho cơ quan Viện trợ quân sự Mỹ (DAO) rời khỏi Việt Nam trong vòng 24 giờ để giải quyết hòa bình ở Việt Nam.

Đến 16 giờ chiều ngày 29/4, đã thực hiện xong việc trả tù binh chính trị (trong đó có Huỳnh Tấn Mẫm). Chỉ huy các ban và cảnh sát 18 quận, huyện đã tan rã (trừ bộ phận biệt phái).

Tổng thống Dương Văn Minh chỉ thị không được di chuyển quân, không được phá cầu. Dựa vào chỉ thị trên, chiều ngày 29/4/1975, phụ tá Tổng tham mưu trưởng Nguyễn Hữu Hạnh đã ra lệnh cho các đơn vị không được phá cầu. Đơn vị nào muốn phá cầu phải có lệnh của Bộ Tổng tham mưu.

Sau đó, khoảng 15 giờ, phái đoàn do Luật sư Trần Ngọc Liễng cầm đầu có Linh mục Chân Tín, Giáo sư Châu Tâm Luân vào Trại David, được đồng chí Võ Đông Giang, Phó trưởng phái đoàn ta tiếp. Ông Liễng đã thông báo với phái đoàn ta về chủ trương “không chống cự” của Tổng thống Dương Văn Minh, mà ông coi là niềm vui sướng nhất trong đời ông, vì đã thông báo cho bên trong biết “Sài Gòn không chống cự” vào giờ chót của cuộc chiến tranh. Theo Luật sư Liễng, Tổng thống Dương Văn Minh đã chấp nhận đầu hàng từ buổi trưa hôm đó (ngày 29/4/1975).

Từ chiều và tối ngày 29/4, cũng có một số người tác động Tổng thống Dương Văn Minh hướng “Thành phố để ngõ”, đầu hàng. Như ông Lý Quý Chung, họa sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành). Thông qua ông Phan Xuân Huy và ông Đoàn Mai, thượng tọa Thích Trí Quang nói điện thoại trực tiếp với Tổng thống Dương Văn Minh: “còn chờ gì nữa mà không đầu hàng”.

Ngày 30/4/1975

- 6 giờ, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh quyền Tổng tham mưu trưởng (tướng Vĩnh Lộc, Tổng tham mưu trưởng đã chuồn) và tướng Nguyễn Hữu Có đến báo cáo với Tổng thống Dương Văn Minh về toàn bộ tình hình quân sự. Sau đó, ông Minh (cùng các ông Hạnh và Có) đến Phủ Thủ tướng (số 7 Thống nhất, nay là đường Lê Duẩn).

Tổng thống Dương Văn Minh họp với Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu và một số người trong nội các “nhóm Dương Văn Minh”, bàn và quyết định không nổ súng và giao chính quyền cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam. Thủ tướng Vũ Văn Mẫu soạn bản thảo tuyên bố này.

- 9 giờ, Tổng thống Dương Văn Minh đọc vào máy ghi âm.

Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh đề nghị và được Tổng thống Dương Văn Minh đồng ý có nhật lệnh cho quân đội. Ông Hạnh soạn thảo nhật lệnh này. Đồng thời tướng Nguyễn Hữu Hạnh gọi điện thoại cho tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh Quân khu 4 yêu cầu cố gắng thi hành lệnh của Tổng thống trên đài phát thanh.

9 giờ 30: Đài phát thanh phát tuyên bố của Tổng thống Dương Văn Minh: “Đường lối của chúng tôi là hòa giải và hòa hợp dân tộc”; “yêu cầu tất cả anh em chiến sĩ Cộng Hòa ngưng nổ súng, và ở đâu thì ở đó”; “Chúng tôi chờ gặp Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam để thảo luận về lễ bàn giao chính quyền trong vòng trật tự, tránh sự đổ máu vô ích cho đồng bào”.

Sau đó, cả các ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu cùng nội các đến Dinh Độc Lập để chờ bàn giao chính quyền cho cách mạng.

Sau khi đọc tuyên bố “đầu hàng” xong, Tướng Dương Văn Minh nói với mọi người (trong Chính phủ): “Mọi việc coi như đã xong. Bây giờ ai muốn đi hay ở thì tùy”.

11 giờ 30, xe tăng quân giải phóng vào Đinh Độc Lập. Xe quân giải phóng đưa ông Dương Văn Minh và ông Vũ Văn Mẫu đến đài phát thanh để đọc tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.

 

KẾT LUẬN

1/ Tướng Dương Văn Minh là người có tinh thần dân tộc, yêu nước. Từ chỗ lúc đầu còn mơ hồ về việc Mỹ xâm lược miền Nam, cho rằng Mỹ có giúp đỡ miền Nam, dần dần tỏ thái độ chống Mỹ: chống Mỹ đưa quân viễn chinh Mỹ và đồng minh vào miền Nam, kéo dài và mở rộng chiến tranh, muốn có hòa bình, độc lập và hòa hợp dân tộc.

2/ Theo ông Nguyễn Hữu Hạnh và ông Lý Quý Chung, Tướng Dương Văn Minh lên làm Tổng thống không có ý để thương thuyết với cách mạng vì đã thấy không còn khả năng thương thuyết; cũng không có ý để tiếp tục chiến tranh vì lâu nay ông Minh chủ trương hoà bình, chấm dứt chiến tranh. Điều này thể hiện rõ ở Tổng thống Dương Văn Minh chỉ định hai cơ sở của ta (chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh và luật sư Triệu Quốc Mạnh) nắm hai lực lượng vũ trang: quân đội và cảnh sát; cử một người dân sự (giáo sư Bùi Tường Huân) làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; chưa đầy một ngày sau khi nhậm chức thì ngày 29/4/1975, đã ra lệnh thả tù chính trị, đuổi phái đoàn DAO của Mỹ; không di chuyển quân, không phá cầu v.v..

3/- Trong điều kiện cuộc tổng tiến công quân sự của các binh đoàn chủ lực kết hợp với cuộc tiến công và nổi dậy của các lực lượng vũ trang và quần chúng ở thành phố Sài Gòn – Gia Định đã tạo sức ép quân sự lớn; công tác vận động, binh địch vận của nhiều lực lượng ta với Tướng Dương Văn Minh; được sự đồng tình, tác động tích cực của những người chủ yếu trong nội các, lực lượng thứ ba và “nhóm Dương Văn Minh”; Tổng thống Dương Văn Minh đã quyết định “không chống cự”, tuyên bố “ngưng nổ súng và ở đâu ở đó vào 9g30 (sau đó tuyên bố “đầu hàng vô điều kiện” vào 11g30) ngày 30/4/1975 là hành động thức thời, làm giảm ý chí đề kháng của đại bộ phận quân đội Sài Gòn vào những giờ chót của cuộc chiến tranh, tạo thuận lợi cho quân giải phóng tiến nhanh vào giải phóng hoàn toàn thành phố Sài Gòn còn nguyên vẹn và không đổ máu. Nhiều thành phố và thị xã khác cũng được giải phóng nguyên vẹn, ít tổn thất. Chúng ta biết rõ giành được thắng lợi to lớn này, cuộc tổng tiến công của các quân đoàn kết hợp với các cuộc tiến công và nổi dậy của lực lượng vũ trang và quần chúng địa phương đóng vai trò quyết định. Tuy nhiên, công bằng mà nói, hành động thức thời của Tổng thống Dương Văn Minh và nội các của ông đã góp phần làm cuộc chiến kết thúc sớm, tránh đổ nhiều xương máu của binh sĩ và nhân dân, thành phố Sài Gòn và nhiều đô thị còn nguyên vẹn. Đó là nghĩa cử yêu nước, thương dân của ông Dương Văn Minh.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 30/10/2004

 

____________

(1) Nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế – xã hội – thương binh Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam.

(2) Phát biểu của ông Dương Văn Minh trong cuộc Thượng tướng Trần Văn Trà, Chủ tịch Ủy ban quân quản TP. Hồ Chí Minh tuyên bố trả quyền công dân cho toàn bộ viên chức Chính phủ “Việt Nam Cộng Hoà”.

(3) Bộ đội Nam bộ tập kết ra Bắc, ở Sư đoàn 330. Sau đó chuyển ra nông trường quân đội.

(4) Sách “Gởi người đang sống” (tr 334-335) của Thượng tướng Trần Văn Trà.

 

 

KHÔNG CÒN LÀ MỐI NGUY CƠ - BP - BÀI THỨ 7

 

Bài Thứ Bảy

KHÔNG CÒN LÀ MỐI NGUY CƠ.

Bằng Phong Đặng văn Âu

Lời mở đầu : Nhận thấy Họa Diệt Chủng nòi giống Việt Nam không còn là nguy cơ, mà nó đang trên đà hiện thực, người viết xin dẫn chứng những sự kiện để giải thích tại sao mình quan niệm như thế. Người viết dành quyền phản biện cho quý vị thức giả. Tác giả sẽ viết làm nhiều kỳ, kính mong quý độc giả quan tâm vui lòng kiên nhẫn theo dõi.

*******************************************************

Hôm nay, ngày 20 tháng 7 năm 2022, tưởng nhớ 68 năm chia đôi đất nước, tôi viết tiếp bài “Không Còn Là Mối Nguy Cơ” để mai sau những nhà nhân chủng học đỡ mất công đi tìm nguyên do nào mà nòi giống Việt Nam bị diệt chủng. Mỗi khi viết xong bài nào, tôi đều gửi đến những nhà trí thức mà tôi có địa chỉ Email và đến các Diễn Đàn để được nhận những phản biện của các bậc thức giả.

Nước Nhật về diện tích lớn hơn nước Việt ta không bao nhiêu và về dân số người Nhật không đông bằng dân ta. Trong nhật ký của một nhà hàng hải Phương Tây (quên tên) viết vào cuốn sổ hành trình: “Phải đến tận nước Nhật, mới tìm thấy một dân tộc thông minh như dân tộc Việt Nam”. Tại sao lại có người nhận xét: “Một người Việt Nam thông minh hơn một người Nhật. Nhưng ba người Việt Nam ngồi với nhau, thì không bằng một người Nhật”. Có ai đọc thấy người Nhật than vãn “Thân phận nhược tiểu” hay có ai nghe người Nhật rên rỉ “Ca khúc Da Vàng”? Điều gì đã khiến cho một dân tộc thông minh, can đảm, anh hùng trở thành một dân tộc ươn hèn, “bốn ngàn tuổi mà không chịu lớn” và bị thế giới khinh khi? Ai có thể trả lời chính xác câu hỏi đó, xin hãy lên tiếng. Liệu dân tộc Việt Nam có muốn đứng lên để thế giới không khinh bỉ?

Hoa Kỳ đã chiến thắng Đệ Nhất và Đệ Nhị Thế Chiến. Hoa Kỳ đã giúp nước Đức thống nhất trong hòa bình. Hoa Kỳ đã giúp Nam Triều Tiên chiến thắng cuộc xâm lăng của Mao Trạch Đông. Tại sao Hoa Kỳ không thể giúp một nền văn minh chiến thắng một chế độ man rợ, để cho cái bọn man rợ đó biến người dân Việt thành súc vật? Tôi tin rằng bất cứ ai quan tâm đến sự tồn vong của nòi giống đều thắc mắc, trăn trở bởi những câu hỏi nêu trên. Về phần tôi, sau khi chiêm nghiệm trong nhiều năm, thì dựa vào lời dạy “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước” của tổ tiên để lý giải cho bài toán Việt Nam.

Một người bạn thân khuyên: “Bạn đang được nhiều độc giả ái mộ. Tôi khuyên bạn đừng đề cập đến Nguyễn cao Kỳ để cho bọn chúng nó có cớ bôi nhọ bạn”. Tôi cám ơn người bạn quý và trả lời: “Tôi không phải là nhà văn viết theo thị hiếu quần chúng hoặc viết theo đơn đặt hàng để câu độc giả. Tôi rất biết nếu viết về Nguyễn Cao Kỳ thì sẽ bị bọn chúng nó bôi bẩn. Nhưng tôi bất chấp, vì tôi cần đưa ra “hiện tượng Nguyễn Cao Kỳ” thì mới chứng minh được cái nhìn của tôi: “Nước Việt Nam đã mất vào tay bọn tay sai Trung Cộng và rồi đây nòi giống Việt Nam cũng sẽ không còn”. Ngày xưa, trước Công Nguyên, bên Tàu có nhà sử học Tư Mã Thiên chấp nhận bị thiến để viết trung thực lịch sử. Ngày nay, tuy không phải là người viết sử, nhưng tôi biết một số góc khuất của lịch sử mà đành im tiếng vì sợ bị bôi nhọ, thì làm sao dám tự hào mình là Người Lính Việt Nam Cộng Hòa? Bạn thấy tôi viết bài nào, tôi đều ghi rõ tên thật (do cha mẹ đặt), địa chỉ nhà, địa chỉ Email và số điện thoại hẳn hoi, thì đủ biết tôi là người có tinh thần tôn trọng độc giả và chẳng sợ cái đám dư luận viên bôi nhọ thanh danh của mình để không dám nói lên SỰ THẬT?

Dù đồng ý hay không đồng ý với quan điểm chính trị của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, nhưng ai đã trải qua thời đại chiến tranh  Quốc – Cộng, đều nhận thấy câu hát “Gia tài của Mẹ để lại cho con một bọn lai căng, một lũ bội tình” phản ảnh đúng với thực tế.

Năm 1930, Hồ Chí Minh lập Đảng Cộng Sản Đông Dương, dựa vào triết thuyết của Marx-Lenin với chủ trương “Vô Gia đình – Vô Tổ quốc – Vô Tôn giáo”. Được bác sĩ Lê Đình Thám thuyết phục tham gia vào đảng Cộng Sản, Bố tôi đặt câu hỏi: “Tại sao anh khuyên tôi tham gia vào đảng cộng sản một cái đảng đòi hủy diệt tình yêu Gia đình, tình yêu Tổ quốc và tình yêu Tôn giáo    để chống Pháp giành độc lập? Dù Pháp đô hộ chúng ta, nhưng ít nhất chúng ta hãy còn Gia đình và Tôn giáo. Nếu cộng sản thành công đuổi Thực dân Pháp về nước, mình chẳng còn thứ gì để làm nền tảng, thì cuộc sống sẽ ra sao?” Tôi nghĩ, nếu tất cả trí thức Việt Nam đều đặt câu hỏi như Bố tôi, thì làm sao Hồ Chí Minh phát triển được đảng Cộng sản ở Đông Dương?

Các lãnh tụ của Đại Việt, của Quốc Dân Đảng đều có suy nghĩ giống như Bố tôi, nên họ đã triệt để chống lại Chủ nghĩa Cộng sản. Và lãnh tụ của họ đã bị Hồ Chí Minh thủ tiêu.

Thực dân Pháp đặt đảng Cộng Sản Đông Dương ra ngoài vòng pháp luật. Các nhà trí thức Việt Nam bị Hồ Chí Minh đứng trong bóng tối “chỉ đạo”, lập ra cái gọi là Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Marx. Thử hỏi, cái chủ nghĩa chủ trương “Vô sản chuyên chính” để bần cùng hóa nhân dân thì có đáng gì để mất công nghiên cứu? Tại sao các nhà trí thức mê say triết thuyết này, triết thuyết nọ, mà không nhớ đến lời dạy của tiền nhân: “Bần cùng thì sinh đạo tặc”? Có phải vì cái căn bệnh vọng ngoại (lai căng) nên tầng lớp trí thức không chịu noi theo những lời dạy quý báu của tiền nhân? Cái ngu của trí thức Việt Nam chính là tinh thần vọng ngoại!

Càng suy nghĩ về Đất Nước, tôi càng thấy rõ ràng dân tộc mình vì bị quỷ ám thì Tổ Quốc mới lâm vào hoàn cảnh không lối thoát. Vì vậy, tôi vẫn tin những oan hồn đã nguyền rủa dân Việt Nam như sau: “Ta (dân Chàm) sẽ làm cho cả dân tộc Việt Nam chúng bay trở nên ngu si, đần độn, tàn bạo, điêu ngoa, gian ác, tôn thờ ĐẠO QUỶ SỨ, khiến cho anh em dòng họ chúng bay đấu tố nhau, chém giết nhau, phản bội nhau, chia rẽ nhau, đố kỵ nhau, người yêu nước bị chà đạp, đứa gian manh được tôn vinh cho đến khi nào nòi giống chúng bay bị tận diệt như chúng tao thì mới thôi!” là suy đoán của tôi cho bài toán Việt Nam hiện nay.

Sau khi Việt Nam bị các thế lực Quốc tế cắt làm đôi vào năm 1954, đảng Đại Việt cử bác sĩ Đặng văn Sung sang Pháp để mời Cựu Hoàng Bảo Đại về lãnh đạo Miền Nam, chống lại chủ nghĩa vô thần cộng sản. Dù bác sĩ Đặng văn Sung đã dùng đủ lý lẽ để thuyết phục Ngài, tại sao Cựu Hoàng nhất mực từ chối? Chẳng lẽ Ngài không quan tâm bảo vệ Kinh thành Huế, đang còn nằm trên phần đất tự do, mà các Tiên Đế đã dựng lên? Tại sao Ngài không tự đảm nhiệm công cuộc cứu nước, mà lại giao cho ông Ngô Đình Diệm, mặc dầu ông Diệm do dự không nhận lời? Trong khi đó có nhiều nhân vật chính trị khác rất muốn được làm Thủ tướng, thì Ngài không trao? Vua Bảo Đại phải nhắc ông Diệm nhớ lại xưa kia Thực dân Pháp không chấp thuận yêu cầu thay đổi chính sách cai trị, ông Diệm đã từ chức Thượng Thư Bộ Lại. Nay Hoa Kỳ đâu phải là Thực dân như Pháp đô hộ. Họ là cường quốc số 1 của thế giới bằng lòng giúp ta vô điều kiện là cơ hội vàng để ông thực hiện hoài bão cứu nước giúp dân. Đến lúc đó, ông Diệm mới miễn cưỡng nhận lời. Sở dĩ ông Diệm thất bại vì thừa hưởng một gia tài gồm một bọn lai căng và một lũ bội tình!

Ông Ngô Đình Diệm về nước với hai bàn tay trắng. Không có cán bộ để thi hành đường lối, chính sách của mình. Ông Diệm đành sử dụng cái “gia sản” do Thực Dân Pháp để lại. Dưới sự cai trị của Thực dân, Quân đội Quốc Gia do Thực dân Pháp đào tạo. Vị chỉ huy Quân đội đó là Tướng Nguyễn văn Hinh, con trai Thủ tướng Nguyễn văn Tâm. Tuy là Việt Nam, nhưng ông Hinh có quốc tịch Pháp. Ông Diệm yêu cầu Tướng Nguyễn văn Hinh vẫn giữ chức Tổng Tham Mưu trưởng Quân Đội Quốc Gia. Nhưng Tướng Nguyễn văn Hinh đã tạt vào mặt ông Diệm một thau nước lạnh: “Tôi không biết ông là ai”! Tướng Hinh quay về với mẫu quốc Pháp và chấp nhận mang lon Trung tá trong Quân Đội Pháp. Nếu Tướng Hinh có học lịch sử Việt Nam để biết Tướng Trần Bình Trọng sau khi bị bắt, được quân Nguyên dụ dỗ, đã khẳng khái mắng vào mặt quân thù: “Ta thà làm quỷ nước Nam, còn hơn làm vương đất Bắc”, thì Tướng Hinh sẽ không theo chân giặc Pháp để nhận cái chức Trung tá quèn.

Về phía Hành chánh, đứng đầu là các quan Đốc Phủ Sứ cũng do Thực dân Pháp đào tạo, quen lối sống “tối sâm-banh” (champagne), sáng sữa bò” thì không thể nào làm cuộc cách mạng chống lại bọn cầm quyền Hà Nội đầy mưu mô và đầy thủ đoạn … bán nước.

Ông Dương văn Minh không theo Tướng Hinh, chấp nhận phục vụ Chính phủ Ngô Đình Diệm. Đại tá Dương văn Minh thành công tiêu diệt Bình Xuyên trong chiến dịch Hoàng Diệu, được Thủ tướng Diệm phong Tướng, nhưng Dương văn Minh tịch thu tiền của địch mà không giao nộp cho Ngân khố Quốc gia, nên bị Thủ tướng Diệm mất sự tin cậy. Kể từ đó Tướng Dương văn Minh căm thù Thủ tướng Ngô Đình Diệm, mặc dầu ông Minh không hề bị kỷ luật, vẫn được ở trong ngôi biệt thự có tên là Dinh Hoa Lan, đi đánh Tennis ở Câu Lạc Bộ Lido của Quân đội thoải mái.

Chiến thuật của cộng sản gồm có: Trường kỳ mai phục, mười năm trồng cây trăm năm trồng người, dùng củi đậu để nấu đậu và vắt chanh bỏ vỏ.

·        Trường kỳ mai phục là kiên trì rình rập, chờ cho  đối phương sơ hở để thực hiện thủ đoạn diệt đối phương.

·        Mười năm trồng cây, trăm năm trồng người tức là cấy sinh tử phù vào cơ thể đối phương để chờ ngày địch phát sinh bệnh. Nếu ai đã đọc cuốn “Từ Triều Đình Huế Đến Chiến Khu Việt Bắc” của Luật sư Phạm Khắc Hòe thì mới biết kỹ thuật cài người của Việt Cộng. Phạm Khắc Hòe là cán bộ cộng sản, làm Đổng Lý Ngự Tiền Văn Phòng cho vua Bảo Đại và cũng là người soạn bức thư thoái vị cho vua Bảo Đại vào ngày 22 tháng 8 năm 1945.

·        Củi đậu nấu đậu hay cướp súng địch để giết địch là sử dụng Người Việt Quốc gia giết Người Quốc gia, mà chúng ta thường gọi là “ăn cơm Quốc gia, thờ ma cộng sản”.

Việt Cộng thừa lúc Dương văn Minh bất mãn chế độ Ngô Đình Diệm, chúng liền sai người em ruột của ông Minh – Đại tá Việt Cộng Dương văn Nhựt – tiếp cận để dụ Dương văn Minh làm phản.

Sau khi Miền Nam mất, chúng ta mới biết nhiều nhân vật giữ chức vụ quan trọng trong Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa là cán bộ Việt Cộng nằm vùng. Mời quý bạn đọc đường link dưới đây để thấy cách thức Việt Cộng cấy sinh tử phù vào Dương văn Minh nhằm làm cuộc đảo chánh vào năm 1963:

https://khongquanc130.blogspot.com/2022/07/phan-tuong-duong-van-minh_21.html

Trước kia, tôi đã trình cuộc phỏng vấn của Cựu Bộ trưởng Lâm Lễ Trinh với Đại tá Nguyễn văn Y – Tổng Giám đốc Cảnh sát dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm – tiết lộ rằng Tổng thống Diệm ra lệnh Đại tá Y đốt hết hồ sơ của Cơ quan Phản gián báo cáo Dương văn Minh làm việc cho Việt Cộng. Chính Tổng thống Diệm còn đứng quan sát để biết chắc Đại tá Y đã đốt sạch tất cả các tài liệu, không chừa một tờ nào. Đại tá Y hỏi:

–  Thưa Tổng thống, tại sao Tổng thống không ra lệnh bắt nhốt Dương văn Minh, mà lại sai tôi đốt tất cả hồ sơ của Dương văn Minh làm tay sai cho Việt Cộng?

–  Tại vì tôi không muốn cho Người Mỹ biết Tướng lãnh của ta làm tay sai cho Việt Cộng, Tổng thống Ngô Đình Diệm trả lời.

Xin lỗi vong linh Tổng thống Ngô Đình Diệm. Con nghĩ rằng Tổng thống là một người Công Giáo tuyệt đối vâng theo lời Chúa dạy: “Các con hãy yêu thương kẻ thù”. Nhưng kẻ thù này là một loài quỷ cực kỳ hung ác, nên Ngài và anh em Ngài đã phải trả cái giá vì tuân theo lời dạy của Thiên Chúa. Con tự hỏi, phải chăng cái chết của anh em dòng họ Ngô Đình là để chịu tội thay cho nhân dân Việt Nam, vì tiền bối của chúng con đã phạm tội giết dân Chiêm Thành? Nếu quả đúng như thế, con tin rằng dù Ngài không được Vatican phong Thánh, nhưng Ngài đã hiển Thánh ở cõi trên. Đây là niềm hối hận của một thanh niên tuyên thệ vào đảng Đại Việt – một đảng có bề dày chống Cộng – mà không biết thủ lĩnh của mình lập Chiến khu Ba Lòng để chống Ngài!

Tôi tự hỏi tại sao Tổng thống Ngô Đình Diệm không kêu Dương văn Minh vào Dinh Độc lập để chỉ cho ông ta thấy Chính quyền có đầy đủ hồ sơ ông ta làm tay sai cộng sản? Để tỏ lượng khoan hồng, Ngài mới ra lệnh cho Đại tá Y đốt hồ sơ trước mặt ông Minh, liệu Dương văn Minh có dám cầm đầu cuộc đảo chánh, vì cơ mưu đã bị bại lộ?

Nếu Tổng thống Ngô Đình Diệm không phải là Công giáo, theo đạo Phật, Ngài vẫn bị bọn Việt Cộng nằm vùng trong Phật Giáo tìm cách giết Ngài. Bằng cớ là Hòa thượng Thích Tâm Châu – Chủ tịch Ủy Ban Liên Phái Bảo vệ Phật Giáo – vì không chấp nhận đường lối đấu tranh của Trí Quang chống nền Cộng Hòa, nên đã bị Trí Quang sai đệ tử đặt trên đầu nằm của Ngài một dĩa máu, một con dao và một tờ giấy với lời hăm dọa giết. Chủ tâm của bọn Ấn Quang muốn triệt hạ nền Cộng Hòa để mở đường cho Việt Cộng xâm lăng Miền Nam, chứ không phải chỉ diệt gia đình Họ Ngô mà thôi.

Nhân vật nổi tiếng thứ hai đã nhúng tay vào việc giết chết nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa mà chỉ có tôi mới dám bạo gan đề cập đến. Đó là “đại văn hào” Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, một cây đa cây đề trong giới trí thức. Nhà văn Nguyễn Tường Tam nổi tiếng hơn ông Ngô Đình Diệm đối với người từng cắp sách đến trường. Ông Nguyễn Tường Tam là Bộ trưởng Ngoại giao trong Chính phủ Liên Hiệp của Hồ Chí Minh, đại diện nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đi dự Hội nghị Ngày 6 tháng 3 năm 1945 với Pháp tại Đà Lạt. Thấy rõ chân tướng đểu cáng của Hồ Chí Minh, ông Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Tường Tam từ chức.

Nhất Linh Nguyễn Tường Tam là một nhà Cách mạng Văn hóa, chứ không đơn thuần là một nhà văn viết tiểu thuyết để độc giả tiêu khiển. Ông muốn thay đổi xã hội, bằng cách vận động xóa bỏ những hủ tục làm cho xã hội thoái hóa. Lập ra nhóm Tự Lực Văn Đoàn, Nhất Linh bài xích cái sự quê mùa Lý Toét – Xã Xệ. Nhất Linh còn muốn giải phóng phụ nữ bằng cách phủ nhận cái câu “Tiết Hạnh Khả Phong” của Nho giáo đã giam hãm người phụ nữ chịu thiệt thòi khi chồng chết. Bà Dân biểu Ngô Đình Nhu trình Đạo luật Cấm Bạo Hành Gia đình và Cấm Đa Thê để bảo vệ phẩm giá người phụ nữ. Tại sao Cụ Nhất Linh không thấy Đạo Luật Gia Đình phù hợp với sự tranh đấu nữ quyền mà Cụ đã cố gắng dùng ngòi bút để cải tạo phong hóa nước nhà?

Nhất Linh không chỉ đơn thuần là nhà văn. Ông còn được đảng Đại Việt và Quốc Dân Đảng kết hợp, bầu làm lãnh tụ. Năm 1954, theo Hiệp Định Paris, Thực dân Pháp phải rời Đông Dương, trao trả độc lập cho Việt Nam. Vì chủ thuyết “Domino”, người Mỹ nhảy vào giúp Việt Nam ngăn chặn làn sóng Đỏ của bọn Hà Nội làm tay sai Cộng sản Quốc tế. Đó là thời cơ vàng để cho nhà Văn Hóa kiêm nhà Cách Mạng Nhất Linh Nguyễn Tường Tam thực hiện giấc mơ của mình.

Năm 1959, cụ Hoàng văn Chí xuất bản cuốn “Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc” mô tả trí thức, văn nghệ sĩ bị chế độ Hồ Chí Minh đàn áp một cách tàn nhẫn. Đó là một tài liệu vô cùng quý giá do CIA mang về cho Việt Nam Cộng Hòa. Tại sao ông Nhất Linh không đề nghị Bộ Quốc gia Giáo dục đưa tài liệu ấy vào chương trình giảng dạy cho học sinh, sinh viên để học sinh, sinh viên không bị cộng sản lôi cuốn vào địa ngục trần gian?

Tại sao lãnh tụ Nhất Linh không thành lập một đội ngũ cán bộ để giảng cho trí thức Miền Nam thấy Hà Nội đã triệt hạ những trí thức Miền Bắc từng lên chiến khu kháng chiến chống Pháp, để cho trí thức Miền Nam mở mắt đừng “ăn cơm Quốc gia thờ ma Cộng sản”?

Với uy tín và kiến thức của Cụ Tam thì các nhà trí thức, các thế hệ thanh niên tin tưởng những gì Cụ Tam giảng dạy về sự khát máu của chủ nghĩa cộng sản là Sự Thật, chứ không phải là tuyên truyền của Chính quyền. Tại sao Cụ Nhất Linh có thể bình thản vui thú tiêu giao phong nguyệt bằng cách lên rừng kiếm hoa lan, trong khi nước nhà đang đối đầu chống lại bọn Việt Cộng “mãi quốc cầu vinh”? Tại sao Cụ xuất bản tờ báo Văn Hóa mà không có một bài nào viết về hiểm họa cộng sản trước mắt để mở mắt các trí thức Việt Nam mê muội?

Năm 1960, tay sai Thực dân Pháp là Vương văn Đông, Trần Đình Lan cầm đầu cuộc đảo chánh lật đổ chế độ Cộng Hòa. Cuộc đảo chánh thất bại, các đàn em của Cụ Nhất Linh tham gia cuộc đảo chánh bị bắt, khai Cụ có dính líu đến âm mưu đảo chánh. Vì danh tiếng của Cụ, cơ quan An Ninh không đến bắt Cụ nhốt vào nhà tù để điều tra, mà chỉ gửi trác yêu cầu Cụ ra tòa để đối chất với nhân chứng, thì Cụ Nhất Linh phải hiểu Chính quyền đã đối xử với Cụ đúng thủ tục pháp lý Tây phương. Bởi vì ở ngoài Bắc, ông Nguyễn Hữu Đang – người dựng lễ đài cho Hồ Chí Minh đọc Tuyên Ngôn độc lập – chỉ xin phép Nhà Nước cho văn nghệ sĩ được quyền tự do sáng tác, liền bị đối xử như súc vật ngay. Tại sao Cụ Nhất Linh từ chối đối chất với các đàn em đã khai Cụ có dính líu đến âm mưu đảo chánh trước Tòa Án? Hàng hậu bối nhận thấy Cụ quyết định quyên sinh là thiếu cái dũng của kẻ sĩ và để lại lá thư tuyệt mệnh kết án chế độ đàn áp Phật giáo là giết anh em ông Diệm.

Ở Hà Nội, Việt Cộng bắt buộc nhà sư trong Chùa Quán Sứ phải lao động tự túc mưu sinh, chứ không được ăn bám vào lễ vật cúng dường của Phật tử, rồi còn có biện pháp khủng bố khiến nhà sư phải hoàn tục. Trong khi đó, ở Miền Nam, Chính quyền đã trích ngân sách Quốc Gia để trùng tu các ngôi chùa đổ nát vì chiến tranh và không ngăn cấm xây chùa mới để thờ Phật. Trường Bồ Đề của Phật giáo được tự do giảng dạy học trò mà giáo sư không phải trình “giáo án” cho Chính quyền như dưới chế độ Việt Cộng. Ngoài ra, Chính quyền còn cho nhà sư xuất ngoại đến các Quốc gia Phật giáo và Quốc gia văn minh Tây Phương (như Trần Quang Thuận học ở Anh Quốc) để thu thập kiến thức nhằm canh tân Phật giáo.  Tại sao văn hào Nhất Linh Nguyễn Tường Tam không thấy đó là điểm son của Chính quyền đối với Phật giáo để trân trọng?

Vì tên tuổi của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam quá lớn, nên bức thư tuyệt mạng của Cụ càng thổi phồng phong trào dối trá, vu khống Chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo dưới chiêu bài “đấu tranh vì Đạo Pháp” do Trí Quang xách động. Cuộc chiến đấu của quân dân Miền Nam chống lại Cộng sản để được tự do là có chính nghĩa, nhưng bức thư tuyệt mệnh của Nhất Linh đã làm cho cuộc chiến đấu kia thành phi nghĩa. Nhà văn Nhật Tiến đọc điếu văn ca tụng cái chết của Nhất Linh dũng cảm, vì Nhật Tiến dốt, nên không nhìn thấy hậu quả tai hại của bức thư tuyệt mệnh!

Một nhà Văn hóa lớn đồng thời là lãnh tụ chính trị có uy tín, chẳng lẽ cụ Nhất Linh không thấy hành động của mình sẽ lưu lại cho con cháu một di sản tồi tệ? Có lẽ văn hào Nhất Linh cũng bị ma đưa lối quỷ đưa đường? Có lẽ vong hồn của Cụ Tam ngày nay ở cõi vĩnh hằng cảm thấy hối hận khi nhìn xuống hơn 90 triệu đồng bào Việt Nam đang bị con quỷ cộng sản đối xử như súc vật? Có lẽ lời nguyền rủa của các oan hồn đã “ứng” vào hành động của nhà ái quốc Nguyễn Tường Tam trở thành kẻ nhúng tay vào sự giết chết nền Cộng Hòa của Miền Nam chăng?

Vì sợ mất chính nghĩa trong cuộc đấu tranh chống lại xâm lăng của Việt Cộng, Tổng thống Diệm đã bất đồng việc Hoa Kỳ đòi đưa quân tham chiến ở Việt Nam. Bảo vệ chủ quyền Quốc gia là đúng. Nhưng trong trường hợp này, tôi nhận thấy quyết định của Tổng thống Diệm là sai. Sai ở chỗ Tổng thống không thấy Tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa bất tài, chưa có kinh nghiệm đánh giặc so với khả năng của quân Việt Cộng có kinh nghiệm trong 9 năm đánh Pháp. Sự tổn thất nặng nề của phía ta trong các trận Ấp Bắc, Đồng Xoài Bình Giã, Đỗ Xá đủ thấy sự yếu kém của cấp chỉ huy Quân sự của ta. Để cho đồng bào ta hiểu tại sao phải chấp nhận cho Quân đội Hoa Kỳ tham chiến, Cụ Diệm chỉ cần lên đài phát thanh giải thích cho đồng bào thấy Quân Đội Hoa Kỳ đổ bộ lên Nam Triều Tiên, đánh đuổi quân Bắc Hàn và chí nguyện quân Trung Cộng lui về phía Bắc Vĩ tuyến 38, nhưng Nam Hàn vẫn giữ được chủ quyền Quốc Gia, không phải là thuộc địa của Hoa Kỳ. Nếu Tổng thống Diệm không vì tự ái dân tộc, biết ngộ biến tòng quyền, chấp nhận yêu cầu của Hoa Kỳ, thì Hoa Kỳ không dùng bọn Việt Cộng nằm vùng trong Phật giáo và không dùng bọn Tướng lãnh phản phúc để lật đổ nền Đệ Nhất Cộng Hòa.

Ông Cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu là nhà chiến lược tài ba, nhưng vì tinh thần Nho giáo với lời dạy “Quyền huynh thế phụ”, nên không dám chống lại quyết định của anh mình. Tôi nghĩ thế! Chẳng qua oan hồn của người Chàm đã khiến cho anh em ông Diệm lấy quyết định sai lầm?

Thưa quý vị độc giả, bài viết sắp tới tôi sẽ đề cập đến nền Đệ Nhị Cộng Hòa Việt Nam. Bài viết dài, nhưng cần thiết, vì phải dẫn chứng nhiều sự kiện để chứng minh dân tộc Việt Nam bị quả báo!

Bằng Phong Đặng văn Âu

10200 Bolsa Avenue, Thành phố Westminster, CA.92683.

Telephone: 714 – 276 – 5600

Email Address: bangphongdva033@gmail.com

https://khongquanc130.blogspot.com/2022/07/khong-con-la-moi-nguy-co-bp-bai-thu-7.html