https://khongquanc130.blogspot.com/2024/05/inh-menh-bai-bang-phong-ang-van-au.html
ÐỊNH MỆNH AN BÀI
Tác giả: Bằng Phong Đặng Văn Âu
Lời giới thiệu tác giả của Việt
Báo: Trước 1975, tác giả là một phi công chiến đấu. Tại Hoa Kỳ,
nhiều bài viết của ông thường được phổ biến trên báo giấy, báo mạng trong sinh
hoạt cộng đồng và các hội đoàn cựu quân nhân VNCH. Bài viết ông góp cho Viết Về
Nước Mỹ kể về một tình yêu đầu đời ly tan và tái hợp đúng như lời một bà thầy
bói đã tiên đoán.
* * *
Tôi ra đời
vào năm Canh Thìn, cầm tinh con rồng, cho nên tôi mơ giấc mơ hải hồ, được bay
cao bay xa như ông Saint Exurpéry (tác giả cuốn Vol de Nuit và cuốn Le Petit
Prince). Sở dĩ tôi thỏa được giấc mộng của mình là vì nhờ Hoa Kỳ tham gia cuộc
chiến Việt Nam, họ cần đào tạo những phi công cho chiến trường. Nếu không, giấc
mơ của tôi sẽ không thành hiện thực, vì tôi chẳng thể nào có tiền để được huấn
luyện trở thành phi công. Sở phí đào tạo một người có thể lái máy bay tốn kém rất
lớn.
Có hôm tôi hỏi
Mẹ tôi, tại sao con tuổi Thìn mà trên giấy khai sinh của con lại ghi năm 1942?
Mẹ tôi đáp: "Thời buổi chiến tranh, giấy tờ thất lạc, lại chạy tản cư liên
miên, Mẹ phải làm tờ "thế vì khai sinh" và khai trụt tuổi cho con thì
nhà trường mới nhận con vào học". À ra thế! Thảo nào số quân của tôi là
62/600356, lẽ ra phải bắt đầu số 60 để chỉ những lớp người sinh năm 1940. Căn cứ
trên tờ "thế vì khai sinh", chánh quán của tôi là làng Nho Lâm, phủ
Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Trú quán là làng Phổ Tây, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa
Thiên.
Thầy (Bố) tôi
là bác sĩ, được đổi đi công tác nhiều tỉnh khác nhau, nên tôi có thể bắt chước
người giúp việc trong nhà để nói các giọng Bắc, Nam, Trung.
Năm 1945, Thầy
tôi qua đời vì căn bệnh ruột dư (Appendicitis) được bác sĩ giáo sư Huard của
trường Đại Học Y Khoa Hà Nội - một danh y thời bấy giờ - giải phẫu. Không may
Thầy tôi bị nhiễm trùng mà không có thuốc trụ sinh vì cuộc chiến tranh giữa Đồng
Minh và Quân đội Nhật hoàng xảy ra. Mẹ tôi lúc bấy giờ mới 38 tuổi, khá đẹp, mà
nhất quyết ở vậy thờ chồng nuôi con, chứ không chịu bước thêm một bước nữa, mặc
dầu có nhiều đàn ông xứng đáng đến ngỏ lời cầu hôn bà.
Tôi là đứa bé
khá ngờ nghệch, được Mẹ cho đi học thì cắp sách đến trường; chứ không hề biết học
để làm gì? Tôi chưa từng có ý niệm rằng học để trở nên người hữu dụng cho tương
lai xứ sở. Do đó, cuối niên khóa được lên lớp là do sự may mắn, hơn là do sự cố
gắng bản thân. Khi lên lớp Đệ Lục, tôi nghe Mẹ tôi nói một câu làm tôi tỉnh ngộ:
"Gắng học đi con để sau này ấm vào thân. Nếu cứ lười biếng thì sau này chỉ
có nước đứng đường thôi con ạ!" Đứng đường tức là làm người ăn mày lạy ông
đi qua, lạy bà đi lại; chứ không phải là làm thầy đội Cảnh sát đứng đường điều
khiển cho xe cộ lưu thông!
Từ đó, tôi tỉnh
ngộ và bắt đầu thời điểm đó, tôi chăm chỉ học, nên cuối niên học nào tôi cũng đều
được lĩnh phần thưởng về các môn Toán, Lý Hóa, Anh, Pháp văn, Việt văn. À, cũng
xin nói thêm, trước kia, làm cho xong một bài luận quốc văn là một cực hình đối
với tôi. Nhưng nhờ học thêm Pháp văn với thầy Trần văn Thông, gần nhà thờ Phủ
Cam - Huế, được thầy dạy pháp cú "analyse logique, analyse
grammaticale" khiến cho tôi viết câu văn tiếng Việt sáng sủa hơn với đầy đủ
chủ từ, động từ và túc từ. Ông bà mình nói không sai: "Không thầy, đố mày
làm nên!". Mỗi khi viết một bài văn nào, tôi đều nhớ ơn thầy Trần văn
Thông.
Nhân đây, tôi
cũng xin nhắc lại một việc: Mẹ tôi là người thầy dạy vỡ lòng cho tôi về chữ Hán
và chữ Pháp. Câu Hán văn và Pháp văn mà Mẹ tôi muốn xây dựng con người tôi như
sau: "Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất"
(Giàu không tham, nghèo không hèn, mạnh không sợ) và "Gravez les bienfaits
sur le marble; les malfaits sur le sable" (Khắc ghi những nghĩa cử trên đá
cẩm thạch; những điều bội bạc trên cát). Suốt đời tôi cố gắng thể hiện cung
cách ứng xử trong cuộc sống như lời Mẹ dạy.
Kết quả thi
Trung học Phổ thông, Tú tài I hay Tú Tài II, tôi đều đậu bình, một phần do may
mắn! Nghiệm ra, tôi không đến nỗi đần, mà chỉ phải tội chậm trí khôn. Vào trường
đời, tôi cũng thuộc loại chậm trí khôn, vì không biết cách làm đẹp lòng thượng
cấp, mặc dầu chưa bao giờ kiếm cớ thoái thác một phi vụ nào do căn bệnh... lạnh
cẳng.
Nhớ có lần
tôi đã phạm vào một điều dại dột trong cuộc họp hành quân. Đó là lúc tôi đứng
lên phản đối cấp trên lấy tên chiến dịch Cầu Không Vận là "Kỳ Duyên
Mai" (phương danh của đương kim Tư Lệnh, con và vợ). Theo tôi, đáng lý ra
phải lấy tên của một vị anh hùng trong lịch sử dân tộc đặt tên cho chiến dịch
thì mới đúng! Do "sự cố" ấy, tôi được bạn hữu trong đơn vị đặt cho
cái hỗn danh "Đặng văn Ẩu" vì dám công khai "chống" lại thượng
cấp. Thật tình, tôi chưa hề làm "ẩu" điều gì để phạm vào quân phong
quân kỷ! Tôi lên tiếng vì lợi ích chung. Chẳng qua, nghĩ mình cứ hành xử như lời
Mẹ dạy mà thôi.
Tôi có một
người Mẹ tuyệt vời, hết lòng thương con, nhưng tôi đã phạm vào ba trọng tội mà
tôi nghĩ rằng mình là đứa con bất hiếu. Lòng tôi cứ dằn vặt, ăn năn, hối hận,
ray rứt khôn nguôi. Đó là:
Thứ nhất, Mẹ
tôi muốn tôi theo học ngành y khoa để nối nghiệp thân phụ tôi. Theo bà, nghề
bác sĩ giúp con bà cứu nhân độ thế để hưởng phước. Tôi đã gia nhập vào Không
Quân, trái với ước nguyện của Mẹ hiền.
Thứ hai, Mẹ
tôi đã thể theo lời xin của tôi để dạm hỏi cô nữ sinh học trò của tôi cho tôi,
nhưng cuối cùng tôi đã phản bội nàng để kết hôn với người khác. Tôi đã làm cho
Mẹ tôi trở thành kẻ bội ước với thông gia.
Thứ ba, cuối
tháng Tư năm 1975, tôi đã không ép Mẹ tôi bằng cách "cưỡng bức" bà
lên xe để thoát ra khỏi nước, chỉ vì bà nói bà không muốn bỏ nắm xương nơi quê
người. Mẹ tôi đã qua đời trong đói lạnh, cô đơn ở quê nhà. Tôi đã khóc òa như một
đứa bé khi hay tin Mẹ mình khuất núi.
Hơn 37 năm sống
ở quê người, tôi ao ước có dịp về nước, đến trước mộ phần của Mẹ để nói lời tạ
tội. Nhưng bởi lo ngại an ninh bản thân, tôi cứ chần chừ vì đã viết nhiều bài
đăng trên mạng lên án gắt gao chống lại chính sách cai trị tàn ác của chế độ hiện
hành. Tháng 8 năm 2011, có lẽ cuộc nhân duyên giữa vợ chồng chúng tôi đã dứt,
tôi liều mình về quê nhà để thể hiện sự sám hối của mình trước vong linh Mẹ.
Khi về đến
phi trường Nội Bài, Hà Nội, tôi "được" hai cán bộ an ninh văn hóa
"trao đổi" hơn 90 phút và ba ngày sau tại khách sạn cũng "được"
nhân viên an ninh chiếu cố hơn 4 giờ đồng hồ. Tôi sẽ tường trình nội vụ này vào
một dịp khác. Từ Hà Nội, tôi gọi điện thoại cho một người bạn học từ thời tiểu
học báo tin tôi đang ở Hà Nội. Bạn tôi ban đầu không tin, vì nghĩ rằng tôi
không dám về.
Đúng thế! Từ
lâu tôi không về nước vì vợ tôi ngăn cản. Nàng sợ nhỡ tôi bị bắt giam thì nàng
sẽ phải tốn tiền để chuộc tôi ra. Nay, duyên nợ giữa nhau đã dứt. Nàng không
còn trách nhiệm gì với bản thân tôi, nếu tôi về để bày tỏ sự hối hận với vong
linh Mẹ mà bị bắt giữ thì tôi cũng cam lòng.
Bạn tôi biết
đích xác tôi đang ở Hà Nội, sau khi nhìn vào "caller ID" hiện ra trên
điện thoại của anh. Bạn tôi nói (xin lặp lại nguyên văn ngôn ngữ địa phương Huế):
"Mi có về Huế thăm mộ O (tức Mẹ tôi) thì nhớ gọi cho hắn nghe!". Chữ
"hắn" trong câu nói của bạn tôi là vị hôn thê mà tôi đã bội tình thưở
trước. Anh bạn cho tôi số điện thoại của nàng. Có số điện thoại được bạn cho,
tôi vẫn không dám gọi nàng, vì tự hỏi: "Gọi để nói gì bây giờ? Nhỡ khi
nghe mình xưng tên, nàng sẽ thốt lên những lời xỉ mắng vì sự bội bạc của mình
hoặc nàng cúp máy không thèm nói chuyện thì bẽ bàng vô cùng".
Hai ngày sau,
bạn tôi gọi và hỏi: "Mi đã gọi cho hắn chưa?". Tôi đáp:
"Chưa!" Bạn tôi có vẻ nôn nả: "Tại răng mi không gọi cho hắn?".
Tôi nói về lý do sự ngại ngùng do dự của tôi, bạn tôi cười: "Mi còn nhớ đến
chuyện hai đứa bây đi xem bà thầy bói Bụi không?". Tôi đáp: "Chừ mi
nhắc thì tau mới nhớ, nhưng có liên quan gì trong việc tau gọi điện thoại cho hắn?".
Bạn tôi trả lời một cách quả quyết: "Hắn còn yêu mi và chờ mi về đó. Tính
đến nay đã là 38 năm kể từ ngày hắn ly dị chồng hắn. Tau đã giới thiệu mấy thằng
bạn giáo sư đồng nghiệp của tau cho hắn mà hắn không bằng lòng đứa nào hết. Hắn
nhất quyết đợi ngày mi trở về đó. Mi hãy mau mau mà gọi cho hắn đi". Nói
xong một hơi dài, bạn tôi cúp máy điện thoại.
Hồi tưởng lại
chuyện quá khứ. Năm 1963, chúng tôi sửa soạn làm đám cưới. Hôn thê của tôi kéo
tôi đi xem bói bà thầy bói Bụi, vì bà nổi tiếng bói rất đúng. Chiều lòng người
yêu, tôi cũng đi, nhưng tôi chẳng bao giờ tin nhảm. Sau khi hỏi tuổi tác chúng
tôi, bà thầy gieo quẻ, rồi đoán: "Cuộc hôn nhân của hai anh chị sẽ không
thành!". Nghe bà thầy nói thế, gương mặt người yêu tôi tái đi, còn tôi tỏ
ra giận dữ: "Bà thầy nói bậy, chúng tôi yêu nhau, cha mẹ hai bên đều đồng
ý. Lý do nào mà bà nói không thành? Tôi đập mu rùa của bà bây giờ!". Bà thầy
bình thản trả lời: "Chừng nào cuộc hôn nhân của hai anh chị thành thì anh
trở lại đây đập mu rùa của tôi cũng chưa muộn!". Trước sự quả quyết của bà
thầy bói, vị hôn thê của tôi khóc nức nở. Tôi xoa lưng nàng và trấn an:
"Bói toán nhảm nhí, em tin làm gì?". Có lẽ cảm động vì những giọt nước
mắt của người yêu tôi, bà thầy nói: "Tình duyên của hai anh chị phải trải
qua một đoạn đường dài chia ly rồi mới thành tựu. Anh này có đi cùng vành non
nước đi nữa thì sau tứ tuần hoa giáp, anh cũng sẽ trở về với chị thôi!".
Đang bực tức vì lời tiên đoán của bà thầy làm người yêu tôi khóc, tôi hỏi:
"Tôi không rành chữ Nho. Bà nói tứ tuần hoa giáp là nghĩa lý gì?". Bà
thầy lại bình thản giải thích: "Hoa giáp là 12 năm, tứ tuần hoa giáp là 48
năm. Tôi quả quyết rằng 48 năm sau anh sẽ về tác hợp tình duyên với cô
này".
Tôi vẫn cho rằng
bà thầy bói nói nhảm. Nhất định không tin. Chẳng ngờ cuộc hôn nhân giữa hai
chúng tôi bất thành. Vì tuổi trẻ thiếu bản lĩnh, tôi đã phạm vào một trọng tội
mà thâm tâm tôi không bao giờ dụng ý phản bội ý trung nhân của tôi. Khi tôi thú
nhận với vị hôn thê của tôi rằng tôi trót rơi vào một tình trạng khó xử, nàng
nói trong nước mắt: "Số trời đã định vậy, em chấp nhận hy sinh". Tôi
quá hổ thẹn trước tấm lòng quảng đại, vị tha của người yêu. Tôi quá xót xa cho
nàng, nhưng chẳng biết làm sao hơn.
Tuân theo lời
khuyên của bạn, tôi bấm số điện thoại gọi cho nàng và hy vọng không bị nàng
buông những lời nói phũ phàng hay gác máy không thèm tiếp. Khi tôi nói tôi là
ai qua máy điện thoại thì đầu dây phía bên kia có tiếng cười thật tươi reo lên:
"Anh đó à? Anh về rồi đó à? Em đây! Đúng 48 năm rồi đó anh hí!".
Năm 1963 tôi
chia tay nàng. Năm 2011 tôi lần đầu tiên gọi điện thoại cho nàng từ Hà Nội đúng
48 năm sau. Không còn do dự gì nữa, khi về Huế lạy tạ lỗi vong linh Mẹ, tôi sẽ
tìm gặp người yêu xưa. Nếu định mệnh dun dủi, tôi có cơ duyên sẽ tiếp nối cuộc
sống còn lại với người vợ (sắp cưới) đầu đời thì cũng là ý trời. Tôi nghĩ thế!
Bốn mươi tám năm trước tôi thú tội với người yêu, nàng không một lời trách móc,
giận hờn. Bốn mươi tám năm sau gọi điện thoại thăm người yêu xưa, nàng đã không
buông lời giận hờn trách móc mà còn reo lên một cách sung sướng giống như người
thiếu phụ chờ chồng sau cuộc vạn lý trường chinh.
Gặp người yêu
xưa, tôi đã quỳ xuống xin lỗi nàng và xin nàng rộng lòng tha thứ. Nàng vội cầm
lấy hai tay tôi và nâng tôi đứng dậy, rồi ôm tôi một cách âu yếm nồng nàn. Xưa
nay, tôi chưa bao giờ được nàng ôm chặt đến như thế. Trong giờ phút ấy, trước mắt
tôi, nàng là hiện thân của Phật Bà Quan Âm hay Đức Bà Maria. Vì chỉ có con người
bao dung thánh thiện mới tha thứ cho tôi một cách dễ dàng như thế!
Tôi kể cho
nàng nghe chuyện tôi và vợ tôi đang trong tiến trình ly dị. Người yêu tôi nhẹ
nhàng khuyên: "Anh hãy cố gắng về hòa giải với chị. Cả hai đã ở tuổi ngoài
70, chẳng còn sống được bao lăm! Em thui thủi một mình gần 40 năm nên quen rồi!
Chỉ khi nào sự cố gắng hòa giải của anh bất thành, anh bị ruồng rẫy, hất hủi, gục
ngã thì em sẽ vực anh đứng dậy! Chưa lúc nào em giận anh vì em tin cái số em
như thế! Chưa lúc nào em thôi yêu anh!"
Sau cuộc chia
tay giữa hai chúng tôi, nàng ngày ngày đi dạy học, nuôi Mẹ già và đứa em bị bệnh
tâm thần. Nàng quyết sẽ không kết hôn với bất cứ ai. Nhưng cuối cùng nàng phải
vâng lời yêu cầu của Mẹ vì nàng là người con chí hiếu. Nàng đành kết hôn với một
người mà nàng không hề yêu. Tiếc thay! Người đàn ông ấy mắc chứng bệnh ghen
tuông một cách kỳ lạ. Anh ta nhiều lần bạo hành với vợ một cách tàn nhẫn vì
nghĩ rằng nàng còn ngoại tình trong tư tưởng, nghĩa là còn yêu tôi. Riêng tôi,
tôi không hề liên lạc với nàng bằng dưới mọi hình thức nào để nàng yên thân bên
chồng, bên con.
Không thể chịu
đựng nổi người chồng vũ phu, nàng về sống với Mẹ và ly hôn chồng. Tin tưởng vào
lời tiên đoán của bà thầy bói, nàng cương quyết chờ tôi. Chưa lúc nào tôi tin
vào thuyết định mạng hay duyên nghiệp như thế, sau khi gặp gỡ nàng. Giả sử chồng
nàng biết cách xử sự như một người có văn hóa đối với vợ thì dù không yêu chồng,
nàng cũng không ly hôn vì cổ tục hoặc lễ giáo Huế không bao giờ chấp nhận người
đàn bà ly dị chồng. Giả sử vợ chồng tôi có chuyện bất hòa dù nặng nề đến đâu,
tôi cũng không thể bỏ vợ. Chẳng qua bị vợ xua đuổi, sỉ nhục mà tôi không thể chấp
nhận là do số trời đã định đoạt để cho tôi trở về quê nhà và được biết người
yêu xưa vẫn chờ mình. Bốn mươi tám năm sau tôi trở về quê để bái lạy hương hồn
Mẹ tha thứ, tôi lại được người yêu xưa tha thứ. Biết đâu Ơn Trên đã dẫn đưa hai
anh em chúng tôi về lại với nhau như bà thầy bói năm xưa đã dự đoán? Tôi rất ao
ước được sống phần đời còn lại bên người yêu xưa. Chúng tôi không phải là hai kẻ
bỏ vợ bỏ chồng để lấy nhau ở tuổi xế chiều. Chúng tôi trở về với nhau do sự an
bài của định mệnh hay duyên nghiệp, tùy theo tín ngưỡng của mỗi người.
Tôi không ghi
xuống đây chức vụ của mình từng đảm nhiệm trong quân ngũ, vì tôi nhớ đến Đặng
Trần Thường, kẻ phò Nguyễn Ánh đắc thắng, đã hành xử thiếu quân tử đối với kẻ
ngã ngựa vì mối thù trước kia. Thường ra câu đối buộc kẻ bại trận phải đáp:
"Ai công
hầu, ai khanh tướng. Trong trần ai, ai dễ biết ai?". Ngô Thời Nhậm, kẻ phò
vua Quang Trung trả lời:
"Thế Chiến
Quốc, thế Xuân Thu. Gặp thời thế, thế thời phải thế!"
Đặng Trần Thường
có cái vẻ vênh váo của kẻ chiến thắng với cái chức vị công hầu khanh tướng của
mình. Trái lại, Ngô Thời Nhậm không tỏ ra hèn vì thua trận. mà phải khúm núm
xin tha tội. Chẳng qua cái thời cái thế xoay vần xui nên đấy thôi!
Cái thời, cái
thế, cái định mệnh, cái duyên nghiệp đã khiến cho chúng tôi đánh mất nhau. Rồi
cũng chính cái thời, cái thế, cái định mệnh, cái duyên nghiệp đưa chúng tôi về
lại với nhau. Tôi quỳ xuống xin lỗi người yêu xưa của tôi không phải tại vì tôi
hèn, mà tại vì tôi sám hối và tôi ngưỡng mộ tấm lòng bao dung, cao cả, vị tha của
nàng đã tha thứ cho tôi.
Nghĩ cho
cùng, công hầu hay khanh tướng như Đặng Trần Thường tỏ ra kiêu hãnh, đối với
tôi cũng chỉ là trò bãi biển nương dâu, chỉ là phù vân gió cuốn mây trôi. Tôi
cho rằng cách ứng xử độ lượng giữa người với người với nhau mới là vĩ đại. Tôi
rời Houston, Texas để về định cư tại Quận Cam của California. Bạn bè, bà con
giúp đỡ tôi rất nhiều nên chỉ trong một thời gian rất ngắn tôi đã thu xếp cuộc
sống tạm gọi là ổn định với đầy đủ tiện nghi. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân
thành của tôi đến tất cả bà con, bạn bè. Xin xác nhận rằng câu nói "Ở hiền
gặp lành" của tiền nhân rất chính xác. Tôi đã được bà con, bạn bè giúp đỡ
tận tình. Mỗi ngày tôi đều đọc Kinh Chú Đại Bi và đọc sách Phật để thấm nhuần lẽ
vô thường của Tạo Hóa. Bài kinh sám hối đọc từ thưở còn là đồng niên Phật tử
Gia đình Chơn Tuệ tôi vẫn nhớ:
"Đệ tử
kính lạy Đức Phật Thích Ca, Phật A Di Đà, thập phương chư Phật cùng Thánh, Hiền,
Tăng. Đệ tử lâu đời lâu kiếp, nghiệp chướng nặng nề, tham giận, kiêu căng, si
mê, lầm lạc. Ngày nay nhờ Phật, biết sự lỗi lầm, thành tâm sám hối. Thề tránh
điều dữ, nguyện làm việc lành... Ngửa trông ơn Phật, từ bi gia hộ, thân không tật
bệnh, tâm không phiền não, ngày ngày an vui tu tập, phép Phật nhiệm mầu để mau
ra khỏi luân hồi..."
Thiết nghĩ,
chỉ có tình yêu thương gồm có lòng bao dung, sự quảng đại, tính vị tha, tình
lân tuất thương yêu kẻ nghèo khó, hoạn nạn là trên hết mọi sự trên đời, vì nó
giúp ta quên được cái "NGÃ" vị kỷ thì tự khắc mình sẽ cảm thấy hạnh
phúc trong đời.
Thưa tất cả bằng
hữu,
Tôi đang hành
trì đạo Từ Bi của Đức Phật. Xin các bạn cầu nguyện cho tôi có ý chí bền bỉ. Xin
cảm ơn tất cả. Xin cầu nguyện gia quyến của mọi người đều được an vui, hạnh
phúc.
Bằng Phong Đặng văn Âu
Kỳ tới: “Nêu
Có Kiếp Sau”, được viết bởi người mà tác giả Bằng Phong Đặng Văn Âu gọi là “người
yêu đầu đời và cũng là người vợ hiện thời của tôi.”
============================================
NẾU CÓ KIẾP SAU
Tác giả: Nguyễn Thị Hồng
Tác giả là một nhà giáo, tốt nghiệp thủ khoa khoá 2 Sư Phạm Qui Nhơn. Sau đổi
đời 1975, bà là cô giáo trường cấp 2 Thuận An. Bà cũng chinh là nhân vật mà
trong bài viết “Định mệnh đã an bài,” tác giả Bằng Phong Đặng Văn Âu gọi là
““người yêu đầu đời và cũng là người vợ hiện thời của tôi.” Hai ông bà hiện là
cư dân Westminster, CA. Sau đây là bài viết của bà.
* * *
Tháng 8 năm
1963, tôi xách chiếc va li nhỏ vào trường Sư phạm Quy Nhơn trước sự ngạc nhiên
của bạn bè cùng lứa: "Con Hồng mà học Sư phạm Quy Nhơn ni à?".
Vâng, các bạn
tôi không ngạc nhiên sao được, khi con bé Hồng tuy nhà quê, nhưng khi vào trường
nữ trung học Đồng Khánh, từ Đệ thất đến Đệ nhị luôn giành ngôi vị đứng nhất lớp;
chỉ khi qua Đệ nhất Quốc học mới chịu đứng thứ hai, (nên dỗi không đi lãnh phần
thưởng thật là trẻ con!).
Thành tích học
ấy là niềm mơ ước của các phụ huynh khá giả hồi đó để mong đưa con vào trường
Dược, trường Y. Và chính tôi cũng từng ôm mộng như thế, nên khi vào lớp Đệ tam
tôi đã không chọn ban Văn chương (ban C) dù tôi rất thích và khá giỏi hai môn
Anh và Pháp ngữ, mà ghi vào ban Vạn vật (ban A), vì ông anh Cả ở Sài Gòn ra
thăm bố mẹ tôi, biết thành tích học của tôi, nên hứa sẽ "nuôi" cho
tôi học Dược ở Sài Gòn. Thế là tôi chúi đầu vào "gạo" Vạn vật và Lý
Hóa để chuẩn bị được cầm cái bằng Tú tài II, hầu bước vào Đại học. Tôi vui mừng
bay ngay vào Sài Gòn (với tấm vé mà cha tôi phải mượn tiền để mua). Nhưng oái
ăm thay, ông anh Cả tôi đã quên lời hứa, kèm lời phán của bà chị Dâu: "O Hồng
con gái học chi cho lắm, chỉ ích lợi mai sau chồng nhờ, thôi để tiền nuôi chú T
(em trai tôi)..." Và khi tôi trở lại Huế thì đã quá muộn để ghi tên vào
phân khoa Đại học, chỉ còn Sư phạm Quy Nhơn nhận đơn, tôi ghi danh thi và đậu
ngay.
Các bạn ơi!
Giờ đây tôi kể dông dài như trên không phải là nhằm mục đích khoe mẻ thành tích
của người về già còn tiếc nuối cái quá khứ học giỏi của mình (để làm gì cơ chứ?!),
mà chỉ để các bạn biết cho lòng tôi miễn cưỡng thế nào khi vào Sư phạm Quy Nhơn
buồn tủi vì cha mẹ nghèo không đủ tiền cho con học cao, lại tự ái và sỉ diện
hão với bạn bè cùng lớp tôi đã từng ray rứt với ý muốn bỏ trường bỏ bạn, rời xứ
dừa sau mỗi biến cố của đời tôi. Nhưng ân tình sâu đậm của Thầy, của bạn mà tôi
sắp kể dưới đây đã gắn số phận tôi với trường Sư phạm, với nghề giáo thân
thương mà đến nay tôi rất đỗi tự hào.
Hai năm học ở
trường Sư phạm Quy Nhơn tôi đã phải gánh chịu hai cái đại tang hai cái tang quá
lớn trên đôi vai gầy của một cô gái ngây thơ bé bỏng. Có lẽ linh cảm điều đó
không vui cho tương lai của tôi, nên chuyến tàu lửa mang tôi vào xứ dừa thật ảm
đạm, tiếng bánh xe sắt của con tàu đều đặn lăn trên đường rầy hòa với tiếng
chong chóng quay ầm ào của hai chiếc trực thăng hộ tống vần vũ trên đầu toa xe
(đề phòng VC tấn công).
Nhập học
tháng 9 thì một chiều tháng 12, tôi được điện tín báo tin cha tôi qua đời vì đột
biến. Sóng biển, hàng dương bên trường than khóc cùng tôi suốt đêm. Các bạn nội
trú xúm xít an ủi vỗ về tôi. Trong đầu tôi lởn vởn ý tưởng về Huế rồi sẽ không
quay trở lại vì mục đích học Sư phạm của tôi là vừa có học bổng, vừa chóng ra
trường có tiền để giúp cha già không còn nữa. Nay cha mất rồi thì tôi học tiếp ở
đây làm gì? Về Huế sang năm thi vào Đại học Sư phạm hoặc học SPCN để chuẩn bị
vào trường Y khoa.
Sáng hôm sau,
bạn bè cùng phòng nội trú, cùng lớp và cảm động nhất là thầy Lương, Hiệu trưởng,
cùng tiễn tôi tận chân cầu thang lên máy bay. Thầy xoa đầu tôi an ủi thật trìu
mến như cha tôi thường làm với tôi. Thầy còn cử anh Võ trị Hà, người trưởng
tràng, lại là hàng xóm của tôi tháp tùng theo tôi để đại diện trường phúng điếu
cha tôi và giúp đỡ tôi trở về trường. Anh Hà cũng thích vì được dịp về thăm Mạ.
Nhìn xuống sân bay tôi thấy mái tóc thầy như bạc thêm, cùng những cánh tay vẩy
vẩy của bạn bè mờ đi sau làn nước mắt. Trước ân tình ấy, ý nghĩ sẽ bỏ trường bỏ
lớp bỗng tan biến trong đầu. Tôi trở lại trường tìm vui trong tình thương của
thầy, của bạn. Tôi lại vô tư gây cười cho các bạn, thường tự xưng mình là Hồng
Thất Công (trong Thần Điêu Đại Hiệp) khi ngồi trên lầu hai, lầu ba mà dùng tài
đánh hơi của lão "Cái Bang" đoán trúng phóc trưa nay Mệ Huế cho ăn
món gì, khiến các bạn phục lăn và cười như "nắc nẻ" khi xuống tới
phòng ăn. Tại đây, cả nhóm ăn lại nhỏng nhẻo với Mệ Huế là không ăn được cá ngừ,
cà nướng... v...v.. Tội nghiệp Mệ Huế lại trìu mến sai đổi cho thành món chả trứng,
cá thu chiên... Thế là các nàng dù là Hoàng Dung xinh đẹp, dù là "Phật tổ"
Như Lai, dù là nàng Tôn Nữ Âu Dương Phong e lệ... (biệt hiệu của các bạn cùng
phòng nằm cạnh giường tôi) đều ăn ào ào như tằm ăn rỗi, đem soong vào xin thêm
cơm. Các chị bếp vui vẻ xới thêm rất tự nhiên để các cô khỏi thẹn, chỉ một nhát
xúc của chiếc đũa bếp to như cái "xẻng xúc đất" là đủ đầy soong cơm.
"Kílô" của các nàng tăng vùn vụt, vì sáng nào cũng "nhón" sạch
hai thúng khoai lang luộc, bánh ú của hai nhóc con bác cai đội lên bán. Khỏi
rao, khỏi mời, hai chú đã được các nàng ngóng từ thật xa, rồi đón ở cầu thang
và thoáng một chốc chỉ còn hai cái thúng không. Các chú chỉ việc ngồi chờ, một
lát sau các nàng đem tiền ra trả đủ. "Này chị hai xâu (khoai)..., này chị
hai cặp (bánh ú)...". Các nhóc chỉ việc đếm tiền, xong đội thúng ra về. Hỉ
hả!!! Giành nhau mua vậy, nhưng ai chậm chân không mua được đều có phần chia
cho. Vui như hội! Ăn, ngủ, cười và... chờ thư. Chỉ khi nào đọc thư người yêu
thì mỗi nàng lui về một thế giới xa xôi với khóc, cười, trăn trở...
Nhưng số phận
lại không mỉm cười với tôi vào năm sau, tôi lại chịu cái đại tang thứ hai. Lần
này không phải là vành khăn trắng lên mái tóc, mà là mảnh khăn đen vắt qua
"con tim vừa vui trở lại" của tôi: Người yêu của tôi, mối tình đầu
trong sáng của tôi, vị hôn phu của tôi đã phụ tình tôi. Đời phi công hào hoa, đời
lính cận kề bên cái chết, cùng với thái độ tránh né giữ gìn thái quá của người
con gái Huế như tôi, cộng thêm không gian xa cách, khiến chàng sa ngã vào ánh
sáng phù hoa, vào niềm đam mê vội vã mà nói lời bội ước với tình xưa. Trước lời
thú nhận đã lỡ lầm của vị hôn phu, dưới sự chứng kiến của gia đình hai bên, dù
mẹ chàng cố nói ra lời hàn gắn, nhưng tôi đã bình tĩnh chúc chàng hạnh phúc
(không một giọt nước mắt van vỉ, không một lời oán trách hờn ghen), vì tôi nghĩ
rằng bất cứ thái độ nào khác cũng sẽ đánh đổ thần tượng của chàng trong tôi. Và
tôi cũng không cần một chút nào lòng thương hại của kẻ khác. "Người ta phụ
mình, nhưng làm sao cho người ta vẫn tôn trọng mình", tôi nghĩ thế.
Từ Sài Gòn trở lại Quy nhơn với con tim băng giá, với đôi mắt ráo hoảnh, tôi lại
có ý nghĩ bỏ Sư phạm, rồi về Huế ghi danh học Đại Học để trở thành một bác sĩ,
hơn hẳn" người ta" cho bõ tức. Nhưng anh lớp trưởng nhận ra nỗi buồn
vời vợi trong tôi. Chờ lớp về hết, anh ở lại hỏi tôi "Sao em có vẻ buồn thế?".
Anh lớp trưởng đã có vị hôn thê ở Quảng trị và xem tôi như người em gái nhỏ.
Tôi cũng xem anh như anh mình, nên khi anh hỏi chạm đến vết thương lòng, tôi đã
òa lên khóc nức nở và kể cho anh nghe về mối tình tan vỡ của mình. Anh để yên
cho tôi khóc, rồi dùng lời an ủi động viên tôi. Sau đó anh cùng các bạn trong lớp
tổ chức nhiều chuyến du ngoạn ngoại thành: thăm Tháp Chàm ở Quy nhơn, trại cùi
Quy hòa, viếng mộ Hàn Mặc Tử..., để tôi thấy nhiều cảnh khổ gấp bội mình. Rồi
chuyến đi về Tuy Phước, thăm sâu vào làng quê Bình Định với những phong cảnh thật
nên thơ, nhưng thấp thoáng những bộ quần áo đen lầm lũi (VC đó). Thấy thật rùng
mình, may mà có anh trong đoàn, sinh trưởng ở vùng đó nên không việc gì. Rồi những
phút cùng các bạn nội trú lầu ba ôm nhau lăn xuống gầm giường khi VC tấn công nổ
bom tự sát làm sập lầu Việt Cường dưới phố (nơi có binh lính Mỹ đến đó ăn uống
sau mỗi cuộc hành quân). Khi lầu hết rung chuyển, chúng tôi cùng chui ra một
cách khó khăn gấp bội so với khi chui vào. Thầy Giám học lên bảo: "sao lại
chui xuống gầm giường, sao không chạy xuống núp trong các hố cát ngoài sân, nhỡ
lầu sập thì sao?"
Thì ra khi hoảng
hốt, chúng tôi đã hành động giống như những con đà điểu rúc đầu vào cát lúc gặp
hiểm nguy. Nhưng nằm trong hố cát ở sân nhìn lên trời càng đáng sợ hơn: những lằn
đạn xanh đỏ bay vèo vèo trên bầu trời do VC tấn công vào thành phố, bên ta chiến
đấu đẩy lui. Thế là cái khổ, cái chết lại giúp tôi gắn bó với trường với bạn,
chúi mũi tìm quên trong việc học, uống từng lời dạy dỗ của thầy cô để ra trường
với hạng thủ khoa (mà các bạn cứ trêu là "thủ khôi" khiến tôi hờn giận
mãi thật là trẻ con!). Tôi được chọn giữ ở lại trường làm giáo sư hướng dẫn các
khóa sau, nhưng tôi chỉ muốn về Huế để được sống bên mẹ già.
Rồi chính nhờ
được làm một cô giáo hiền hòa, mẫu mực mà tôi đã vượt qua những nghiệt ngã của
số phận do sự đối xử hà khắc của gia đình chồng và những tai ương của đất nước
tạo nên. Môn tâm lý giáo dục của thầy Mẫn dạy tôi biết nói những lời ái ngữ với
học trò trước khi phê bình cái sai của chúng. Nhớ lời thầy, tôi không bao giờ
phê "chữ cẩu thả" mà "em cần viết cẩn thận hơn", hoặc không
phê "vở nhớp quá" mà là "vở sạch mới đẹp"...
Những năm dạy
tiểu học, trong cặp tôi lúc nào cũng có hộp kim chỉ để khâu áo cho những em nào
nhỡ rách, có cả lượt dày để chải chí cho mấy em gái nghèo thiếu bàn tay mẹ chăm
sóc, có cả kéo để cắt tóc cho các em khỏi bị tóc che mắt...
Khi được chuyển
về trường cấp II Thuận An thì nơi đây là quê hương thứ hai che chở giúp tôi vượt
qua những khổ ải do gia đình chồng đọa đày. Lúc phải rời bỏ gia đình chồng do bị
đàn áp quá đáng, các phụ huynh ở Thuận An đã đùm bọc, an ủi xoa dịu cho tôi những
vết thương từ thể xác đến tâm hồn. Thậm chí có người mở lời cho tôi và hai con
vượt biên cùng con của họ mà không phải đóng một cắc bạc, nhưng tôi không thể bỏ
mẹ già và cậu em bị tâm bệnh để ra đi. Các học sinh của tôi đều mê môn Văn tôi
dạy, phải chăng do tôi đã trao truyền cho các em tất cả tình cảm thương yêu và
trải nghiệm của bản thân vào trong mỗi bài giảng?
Thời bao cấp,
nhà giáo đều thiếu thốn, nhưng tôi biết tranh thủ thời gian để chạy chợ nuôi mẹ,
em và các con no đủ. Thấy các cô giáo mà phải vất vả ngược xuôi, các cô dì chủ
hàng cũng thương, dành cho sự nhẹ nhàng, ưu ái. Một số bạn tôi bỏ nghề, vì nghề
giáo cơ cực quá, nhưng tôi thì không. Tôi nghĩ rằng nhờ giữ nghề dạy học mà một
người mẹ đơn thân như tôi mới có thể giáo dục các con chăm ngoan, thành đạt và
có cuộc sống gia đình hạnh phúc hơn bố mẹ chúng. Tôi cảm thấy lời Phật dạy
"sống từ bi, hỉ xả" như thấm từ lúc nào vào cuộc đời làm cô giáo của
tôi, tự nhiên như cây cỏ hấp thụ khí trời. Tôi không hề oán hận ai, thậm chí cả
với người đã hành hạ mình.
Có lẽ cuộc đời
nhà giáo của tôi chỉ biết gieo nhân lành nên cuối đời gặp quả ngọt: người yêu đầu
đời của tôi đã trở về quỳ xuống xin tạ tội vì đã để đời tôi bấy lâu chịu khổ
đau. Anh đã đón tôi sang đất nước Hoa Kỳ để tôi được sống sung sướng quãng đời
còn lại. Tôi được học sinh cũ của trường Trung học Thuận An từ nhiều tiểu bang
về chào mừng hoặc gọi điện thăm hỏi, dẫn cô đi thăm thú cảnh đẹp nhiều nơi.
Ôi, còn gì
sung sướng hơn khi thấy những học sinh bé bỏng ngày xưa của mình, giờ đây đã trở
thành những trung niên khôi ngô, thành đạt, những thiếu phụ xinh đẹp, lịch lãm
nơi xứ người. Vậy mà đối với cô giáo cũ, các em vẫn một tiếng "thưa"
hai tiếng "dạ" rất đỗi lễ phép, khiến lòng tôi cảm thấy xúc động nao
nao, tự hào về mình và về các học sinh thân yêu.
Tôi còn được
gặp lại các bạn nội trú trường Sư phạm Qui nhơn ngày xưa, nay các nàng đều xấp
xỉ ở ngưỡng "thất thập cổ lai hi", nhưng vẫn xinh đẹp, vẫn yêu đời và
nhất là tình bạn vẫn nồng nàn, thắm thiết như xưa. Phải chăng, nhờ ngành Sư phạm
mà vẻ đẹp truyền thống của nền văn hóa Việt nam vẫn nở hoa trên xứ người!
Chính vì thế,
như đầu bài viết, tôi có kể lể là tôi miễn cưỡng thi vào trường Sư phạm, thì
nay tôi xin sửa sai để khẳng định: Nếu có kiếp sau, tôi lại cố gắng học để được
thi vào ngành Sư phạm, được làm một cô giáo mẫu mực, dịu hiền, để trao hết tri
thức và tình cảm yêu thương của mình cho thế hệ mai sau: gieo những nhân lành
nhằm tạo quả ngọt cho đời.
Nguyễn thị Hồng
---------------------------------------------------------------
|
|||||||
|
|
|
|
|
|
||
Trước 1975, tác giả là một phi công
chiến đấu. Tại Hoa Kỳ, nhiều bài viết của ông thường được phổ biến trên báo
giấy, báo mạng trong sinh hoạt cộng đồng và các hội ... |
|||||||
Preview by Yahoo |
|||||||
|
|||||||