Search This Blog

Saturday, April 30, 2022

ARBISHOP VIGAN Ò ABOUT UKRAINE WAR

 

Viganò, Vatican critic, blames 'deep state' for Ukraine war, citing COVID-19 measures


VATICAN CITY — As Pope Francis continued attempts to mediate the conflict in Ukraine, former Vatican envoy and outspoken papal critic Archbishop Carlo Maria Viganò released a letter Monday (March 7) blaming “deep state” forces in the United States, the European Union and NATO for triggering the current war and demonizing Russia.

“The United States of America and the European States must not marginalize Russia but build an alliance with it, not only to restart trade for the prosperity of all, but in lieu of the reconstruction of a Christian Civilization, which will be the only one able to save the world from the transhuman and medical-technical globalist monster,” the archbishop wrote in his nearly 10,000 word letter.

The archbishop, once the papal nuncio to the United States among other countries, has a keen understanding of what happens in rooms of power and influence, but since accusing Francis of covering up allegations of sex abuse against disgraced ex-cardinal Theodore McCarrick, going so far as to ask for the pope's resignation in 2018, Viganò has been welcomed into the ranks of a small but outspoken Catholic conservative right. His rhetoric has increasingly leaned on anti-migrant, anti-vaccine and pro-Trump takes.

The archbishop said in his letter that Putin has been cornered by an aggressive NATO, backed by the United States, which is seeking to escalate the conflict for its own gains. "This is the trap for Russia just as much as Ukraine, using both to allow a globalist elite to bring its criminal plot to fruition," Viganò wrote.

So-called democratic states, according to Viganò, have imposed "censure and intolerance" over dissenting opinions. The pandemic has exacerbated this dynamic, the archbishop said, adding that global media outlets "shamelessly lied" with the cooperation of governments and the Catholic hierarchy.

Viganò said the "ostracism" of those who have opposed the administration of COVID-19 vaccines was similar to the treatment reserved for those who refuse to call Putin an "invader" or "tyrant."

The Vatican has repeatedly dismissed objections to the vaccines based on their development or testing with stem cell lines original drawn from aborted fetal cells. Pope Francis has joined global pro-vaccine campaigns, calling getting the shot "an act of love." The Pontifical Academy for Life, a Vatican think tank charged with promoting life from conception to natural death, has come forward numerous times encouraging Catholics to get the vaccine.

Advertisement

Viganò adopted Russian President Vladimir Putin's justifications for attacking Ukraine, lamenting the lack of media coverage of supposed neo-Nazi groups in Ukraine that have allegedly attacked Russian-speaking Ukrainians in the autonomous eastern Ukrainian regions of Donetsk and Luhansk. Ukrainian President Volodymyr Zelenskyy has ridiculed the idea that Nazism is behind the eight-year-old conflict in his country's east, which Russia invaded in 2014.

The letter was the second defense of Russia's invasion to be floated by a prominent churchman in recent days. In a sermon on Sunday, Patriarch Kirill of Moscow, the head of the Russian Orthodox Church and an ally of Putin, repeated a long-held contention that the West wants to enforce the practice of holding gay pride parades as a test of loyalty to its values, which include the acceptance of homosexuality. The Ukraine war, he said Sunday, resulted from the eastern regions' refusal to acquiesce.

"If humanity accepts that sin is not a violation of God's law, if humanity accepts that sin is a variation of human behavior, then human civilization will end there," Kirill said on the pre-Lenten celebration known as Forgiveness Sunday.

But Viganò sees a deeper plot to institute a new world order. Naming the United Nations, NATO and the International Monetary Fund as well as the European Union and billionaire philanthropists like George Soros and Bill Gates, the archbishop identified a global conspiracy, initiated by an American deep state, to introduce a world government based on economic interests and progressivism.

Viganò portrayed Zelenskyy as an E.U. puppet, an affable outsider introduced to foment Ukrainians' feelings against Russia.

"The image of Zelenskyy is an artificial product, a mediatic fiction, an operation to manipulate consensus that was nonetheless able to create a political character in the Ukrainian collective imagination and who in reality, not in fiction, was able to seize power," the former Vatican envoy wrote of the Ukrainian president, who is Jewish.

Calling Ukrainians "hostages" of the globalist totalitarian regime, he advised them against joining the E.U. Instead, Viganò wrote, European nations must seek their independence by finding once more their "sovereignty, their identity, their faith. Their soul."

Nonetheless, the archbishop urged Russian President Vladimir Putin to "turn the tables" on the "globalist ploy" by offering Ukraine a peaceful way out. "The more Putin believes (himself) to be right, the more he will prove the greatness of his nation and the love for his people by not giving into provocations," he added.

A version of this story appeared in the March 18-31, 2022 print issue under the headline: Viganò blames 'deep state' for Ukraine war .

 

Wednesday, April 27, 2022

CAI TÔI ĐÁNG GHÉT (BÀI SỐ 2) - BẰNG PHONG

 

 

“CÁI TÔI” ĐÁNG GHÉT.

Bằng Phong Đặng văn Âu.

(Bài Thứ Hai)

Lời mở đầu: Trong Việt Nam có câu than thở rất phổ biến: “Lịch sử là môn học mà người Thầy không muốn dạy và người học trò không muốn học”. Tại vì chế độ cộng sản không cho phép ai được quyền nói thật. Tại Hải ngoại, không có luật nào cấm sử gia viết thật. Nhưng họ sợ bị ném đá, cho nên không tiện viết ra Sự Thật. Tình cờ “lạc đường vào lịch sử”, tôi xin viết ra một số góc khuất của lịch sử để đời sau hiểu dân tộc ta đã có một thời kỳ như thế.

Nhân dịp ngày 30 Tháng Tư sắp tới, tôi viết bài này để tưởng nhớ đến tất cả những quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa đã dũng cảm nằm xuống để cho dân tộc đứng lên.

Ngày 30 Tháng Tư cả triệu triệu người Việt Nam đều buồn, chứ không phải là “có một triệu người vui, một triệu người buồn” như ông Thủ tướng Việt Cộng Võ văn Kiệt nói. Nếu có kẻ nào vui khi ngày “30 Tháng Tư” tới là kẻ đó không phải người, mà là ngạ quỷ súc sinh, bởi vì “Bên Thắng Cuộc” đã biến cả đất nước (kể cả Việt Cộng) thành trại súc vật. Làm súc vật mà vui thì còn Trời, Đất gì nữa?

Năm 1976, một nhóm cựu quân nhân tại vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn họp nhau để bàn tính xem có thể làm được điều gì cho quê hương ở bên kia bờ Đại dương. Trong cuộc họp đó có sự hiện diện của Phó Đề đốc Hoàng cơ Minh. Tôi nói: “Mất nước, chúng mình đã mất tất cả. Chỉ có một giá trị quý báu không một ai có thể lấy ra khỏi chúng mình. Đó là tư cách của Người Lính Việt Nam Cộng Hòa. Đừng bao giờ quên rằng mình đã một thời hy sinh tính mạng để bảo vệ giá trị nhân bản của Miền Nam. ‘Ta chỉ thua một trận đánh, chứ không thua cuộc chiến’ (We have lost the battle, but not the war) như câu nói bất hủ của Tướng De Gaule vào năm 1940. Việc phải làm trước tiên của người hải ngoại khi lấy lại được Quê hương là phục hồi giá trị đạo đức mà cộng sản đã chà đạp”. Một cách khiêm tốn, tôi có thể nói: “Tôi là một trong những người lính xứng đáng của Nền Cộng Hòa Việt Nam”, vì dám công khai lên tiếng chống lại bất cứ ai, bất cứ đoàn thể nào có manh tâm lợi dụng chính nghĩa Quốc Gia để tư túi. Để tỏ ra quang minh chính đại, tôi không bao giờ sử dụng nặc danh, không bao giờ bêu rếu đời tư hay ngoại hình khuyết tật của kẻ khác. Tôi ủng hộ những nhà tranh đấu cho Sự Thật.

Có một vài cựu quân nhân than thở “họ là người đã chết mà chưa chôn”, vì họ tự cảm thấy vô dụng. Riêng cá nhân tôi, nếu còn thở, tôi còn kiên trì tuân theo lời trăng trối của vị Cha Đẻ nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa: “Tôi tiến, anh em hãy tiến theo tôi. Tôi lùi, anh em hãy giết tôi. Tôi chết, anh em hãy nối chí tôi”. Có người ân cần khuyên tôi: “Thôi bạn ạ! Già rồi! Hãy lo giữ gìn sức khỏe! Chẳng làm được gì đâu!” Tôi trân trọng cám ơn lời khuyên tình nghĩa ấy. Tôi rất biết mình chẳng làm gì được trong tình thế này, nhưng tôi không thể tắt trong tai âm thanh réo gọi: “Này công dân ơi! Đứng lên đáp lời sông núi …”, nên đành phải vận dụng hết sức bình sinh để nói thay cho những rên xiết của những oan hồn từ dưới đáy mộ sâu: “Hãy sống dùm tôi, hãy nói dùm tôi, hãy thở dùm tôi”.

Năm 2011, tôi về Việt Nam để dự lễ hạ huyệt tro cốt anh tôi từ Pháp mang về chôn cất tại nghĩa trang Nhà Họ Đặng Nho Lâm, phủ Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Một người cháu đến bên tôi thì thầm: “Con cám ơn ông”. Tôi hỏi: “Con cám ơn ông về điều gì?”. Người cháu đáp: “Nhờ có ông còn sống sót sau trận chiến kinh hồn, ra hải ngoại ông vẫn dành thời gian vạch trần tội ác của Hồ Chí Minh để minh oan cho dòng họ Đặng nhà mình bị cộng sản bách hại.” Cháu tôi nói đúng! Dù chưa làm được điều gì ghê gớm để rạng danh dòng họ, nhưng ít nhất tôi không làm một kẻ cầu an, tha phương cầu thực, giá áo túi cơm, sống qua ngày chờ qua đời để làm tủi vong linh bố mẹ đã nuôi  dưỡng mình. Tôi coi cuộc đấu tranh chống lại tư tưởng gian tà của cộng sản áp đặt lên loài người là một nhiệm vụ thiêng liêng của bất cứ ai còn có lương tri.

Những gì viết ra, tôi không hề có chủ đích chiều theo thị hiếu của độc giả “Mua vui cũng được một vài trống canh”. Tôi cũng không nuôi hy vọng những gì mình viết có thể cải tạo tư tưởng của những người mà đầu óc đã đóng băng. Tôi không quan tâm đến những lời chửi bới bẩn thỉu, vô giáo dục của phường vô lại, bởi vì mình chẳng may bị sinh ra vào thời đại Hồ Chí Minh, một thời đại phản bội, một thời đại luân thường đạo lý đảo lộn! Tôi viết để giúp cho những nhà nhân chủng học mai sau đỡ mất công tìm kiếm nguyên nhân vì sao một nòi giống thông minh, can đảm, hào hùng là thế, mà bị diệt chủng (tôi sẽ chứng minh trong bài viết tới). Tuy bị xếp hạng chót bẹt trên nấc thang xã hội của thời xưa “Sĩ, Nông, Công, Thương, Binh”, nhưng tôi có kiến thức nhờ hai lần du học Hoa Kỳ vào năm 1962 và năm 1970 để theo đuổi một “ngành học uyên bác, một kiếp sống hải hồ và một cuộc đời ngang dọc” như Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Xuân Vinh – vị Cựu Tư lệnh Không Quân có bằng cấp cao hơn các vị Tư lệnh khác – từng viết về Đời Phi Công. Vả lại, gần 47 năm sống ở Mỹ, chẳng lẽ đầu óc tôi cứ mãi giống như con ếch ngồi đáy giếng? Tôi được dịp nhìn thấy cả vòm trời nhờ sự tiến bộ của khoa học thông tin. Nói tóm lại, anh em Không Quân chúng tôi không phải là cái thứ lính tẩy Khố Xanh, Khố Đỏ của thời vua chúa, chỉ biết vòng tay lễ phép “bẩm cụ” mỗi khi quan lớn phán bảo. Tuy mang danh là kẻ võ biền, nhưng chúng tôi có khả năng suy luận và phản biện trong vòng lễ giáo!

Nhân cuộc chiến tranh Nga “xâm lăng” Ukraine, Tổng thống Donald Trump khen Putin thông minh. Ông đã bị phe Dân Chủ và truyền thông thổ tả mạt sát ông thậm tệ. Họ kết tội ông ủng hộ Putin khát máu là bất nhân. Tôi hiểu Tổng tống Donald Trump khen ngợi Putin là có lý do, nên tôi đã viết bài phân tích, nhận định tại sao Putin tấn công Ukraina. Để làm nền tảng cho lý luận của mình, tôi đã viết trước bài nghiên cứu về các cuộc chiến tranh tôn giáo bằng bài “Trận Chiến Giữa Các Ông Con Trời” để chuẩn bị tư tưởng độc giả trước khi đọc bài tham luận về cuộc chiến Ukraine của tôi ra mắt. Quý vị mở đường link dưới đây để đọc bài viết:

https://khongquanc130.blogspot.com/2022/04/tran-chien-giua-cac-ong-con-troi.html

Nhờ sự đắc cử chức Tổng thống của doanh gia Donald Trump vào năm 2016 và sự thất cử của Tổng thống Donald Trump vào năm 2020, tôi mới thấy được sự can thiệp của bàn tay Đức Chúa Trời. Từ năm 1998, trả lời cuộc phỏng vấn của ông Larry King và bà Oprah Winfrey, ông Trump tỏ ra lo ngại cho tương lai nước Mỹ. Được hỏi ông có ra tranh cử Tổng thống để cứu nước Mỹ không, ông Trump trả lời rằng ông yêu thích cuộc sống hiện tại. Ông trông chờ nước Mỹ có một vị anh hùng xuất hiện để cứu nước Mỹ mà thôi. Nhận thấy Tổng thống George W. Bush tấn công Iraq, giết Saddam Hussein làm hao tốn nhân lực và tài lực là sai lầm, ông lên tiếng công kích. Tiếp đến, Barack Hussein Obama – một người có tín ngưỡng Hồi giáo và tư tưởng Mark Marx – nhờ sự hỗ trợ tài chánh của George Soros mà đắc củ Tổng thống, càng làm cho nỗi lo sợ cho tương lai đen tối của nước Mỹ nơi ông Trump càng lớn hơn. Ông không tin Barack Hussein Obama là người sinh đẻ tại Hoa Kỳ, cũng như chính Hillary Clinton khi tranh cử trong đảng cũng tố giác Obama không sinh ở Mỹ. Người anh em cùng cha khác mẹ của Obama trưng bằng cớ Obama sinh ở Kenya. Tờ giấy khai sinh của Obama ở Nhà thương Hawaii cũng không thật. Nhưng truyền thông cánh tả của Mỹ đều ém nhẹm đi. Cho nên, tới năm 2016, Donald Trump đành từ bỏ cuộc sống giàu sang của một nhà tỷ phú, ra tranh chức Tổng thống để cứu nước Mỹ.

Ban đầu tôi tưởng rằng ông Trump ra tranh cử để quảng cáo cho thương vụ của ông, vì ông không hề có một chút kinh nghiệm cầm quyền. Nhưng theo dõi các cuộc tranh luận giữa các ứng viên trong đảng Cộng Hoa, tôi nhận thấy chủ trương, đường lối “MAGA” rất thiết thực. Ông Trump đã đánh bại 16 ứng viên trong đảng Cộng Hòa, rồi thắng luôn Hillary Clinton, dù bà được 90% truyền thông ủng hộ, thì ai nấy đều tin tưởng Donald Trump là sự lựa chọn của Thiên Chúa. Mặc dù đảng Dân chủ và truyền thông cánh tả tấn công tơi bời bằng những đòn chụp mũ, vu khống hết sức bẩn thỉu, nhưng ông vẫn thành công vượt bực trên phương diện ngoại giao, an ninh nội địa. Một thành quả nổi trội nhất của ông là dời tòa Đại sứ Mỹ từ Tel Aviv đến Jerusalem, mà các đời Tổng thống từ Bill Clinton, qua George W. Bush đến Barack Hussein Obama hứa chắc với cử tri, nhưng không dám thực hiện vì sợ sự chống đối của khối Ả Rập ở Trung Đông.

Thông thường một Tổng thống thành công vượt bực sẽ chắc chắn đắc cử nhiệm kỳ 2. Đối đầu một địch thủ – Joe Biden – tuy có 36 năm làm Thượng Nghị sĩ và 8 năm làm Phó Tổng thống, nhưng chẳng có một thành tích nào đáng kể, nằm dưới hầm trú ẩn suốt thời gian tranh cử, sự thắng cử của Tổng thống Donald Trump dễ dàng như lấy đồ trong túi. Chưa bao giờ có sự kiện một vị Tổng thống được quần chúng nườm nượp ủng hộ với đông nghịt thuyền dưới nước, hàng mấy dặm dài xe hơi trên bộ nối đuôi và tàu bay rợp trời trong không gian như cuộc tranh cử của Tổng thống Donald Trump trong năm 2020. Thế mà một chính trị gia gà mờ, ngớ ngẩn, nói trước quên sau như Joe Biden thắng cử chức Tổng thống nhờ gian lận. Cả thế giới bàng hoàng vì một cường quốc số 1 của thế giới tự do, có nền dân chủ lâu đời, mà bỗng nhiên xuống cấp một cách thảm hại! Có những người phụ nữ Việt Nam cả đời không quan tâm đến chính trị cũng buồn bã, khóc thương vị lãnh tụ yêu nước hết mình, tài ba lỗi lạc bị lật đổ bằng sự gian lận trắng trợn. Ban đầu, tôi hết sức buồn bã, vì Tổng thống Trump thất bại, thì lấy ai là người có đủ bản lĩnh để đối đầu với Trung Cộng? Làm cách nào để đồng bào mình trong nước đứng lên lật đổ bọn cầm quyền để tôi có thể trở về Quê Mẹ mà lòng tôi hằng ấp ủ bấy lâu?

Nhưng sau khi qua cơn khủng hoảng tinh thần, tôi tự trấn an và nghĩ rằng sự thất cử của Tổng thống Donald năm 2020 cũng do bàn tay Thiên Chúa. Tại sao tôi nghĩ vậy? Vì Chúa muốn cho nhân dân Hoa Kỳ thấy bọn làm chính trị của Mỹ gồm có đảng viên Dân Chủ lẫn Cộng Hòa trong ba ngành Hành Pháp, Tư Pháp, Lập Pháp đến Truyền thông đều dơ bẩn, đã bị Trung Cộng mua chuộc, điều khiển.

Thế kỷ trước, có người nói Quốc gia nào có lực lượng Hàng Hải mạnh nhất đại dương, Quốc gia đó thống lĩnh thế giới. Anh Quốc là một nước nhỏ về diện tích, nhưng có một lực lượng hải thuyền và thương thuyền hùng mạnh nhất thế giới. Vì thế, Anh Quốc tự hào với câu “mặt trời không hề lặn trên Đế quốc Anh”. Khi lực lượng Hàng Hải của Hoa Kỳ mạnh lên, Hoa Kỳ trở thành cường quốc số 1 trên thế giới. Sức mạnh của nước Mỹ là Đức Tin “In God We Trust”. Từ một vùng đất hoang vu, chưa ai khai khẩn, được nhà tiên phong Christopher Columbus khám phá và quy tụ bởi những người có đức tin Thiên Chúa, yêu lý tưởng tự do. Nhờ Đức Tin, nước Mỹ được thành lập chưa đầy 200 năm, đã trở nên hùng cường nhất thế giới. Đó là phép lạ! Chứ gì nữa?

Tổng thống Abraham Lincoln nói: “Không một quốc gia nào trên thế giới có thể đánh bại nước Mỹ, ngoại trừ chính người Mỹ”. Đúng thế! Nước Mỹ vừa giàu, vừa mạnh, vừa được bao bọc bởi hai Đại dương, nên không một Quốc gia nào dám tấn công vào nội địa nước Mỹ. Nhưng năm 2001 bọn khủng bố Hồi giáo đã tấn công nước Mỹ từ bên trong. Tại sao cuộc đánh bom xảy ra vào Tháng 9 Ngày 11? Tôi nghĩ rằng đấy không phải là ngày ngẫu nhiên, vì “911” là con số điện thoại báo động khi có sự nguy cấp chết người. Tôi tin rằng Thiên Chúa báo động cho nước Mỹ hãy đề phòng sự tấn công của bọn nội thù. Thượng Nghị sĩ Barack Hussein Obama – vừa có tín ngưỡng Hồi giáo, vừa có tư tưởng Karl Marx – chủ trương chia rẽ chủng tộc, chia rẽ tôn giáo (như cấm viên chức Liên bang dùng chữ Merry Christmas, chỉ được dùng chữ Happy Holiday trong Mùa Giáng sinh), làm luật bắt buộc nhà thương Công giáo Saint Joseph không được từ chối phụ nữ đến yêu cầu phá thai … thì coi như kẻ nội thù trong lòng nước Mỹ!

Hiện nay, tại Mỹ có hơn 1700 Viện Nghiên cứu Chiến lược (Strategic Think Tank) hoạch định chính sách cho chính nước Mỹ và cho toàn cầu. Đa số những “Think Tank” đều do người có gốc Do Thái đứng đầu, vì Do Thái là nòi giống thông minh ngoại hạng. Bạn đọc có ngờ được không, các Quốc gia nước ngoài có thể thuê “Think Tank” của Mỹ làm nghiên cứu dự án Kinh tế, Tài chánh, Quốc phòng (kể cả Quốc gia thù địch của Mỹ, như Trung Cộng cũng thuê “Think Tank” được). Vậy sự thông minh của Do Thái có thể lèo lái thế giới là đương nhiên!

Từ lâu, tôi cứ thắc mắc vì sao Hoa Kỳ chưa thua một trận chiến nào, mà lại thua trận chiến diệt Việt Cộng, một kẻ thù yếu ớt và lạc hậu về mọi mặt? Tình báo Hoa Kỳ chắc chắn biết Trí Quang là cán bộ Việt Cộng nằm vùng, tại Mỹ dùng Trí Quang xách động Phật giáo để lật đổ nền Đệ Nhất Cộng Hòa? Tổng thống Ngô Đình Diệm – một tín đồ Công giáo thuần thành – phạm tội gì mà thuê bọn Tướng lãnh phản phúc làm đảo chánh và giết một cách man rợ? Tổng thống John F. Kennedy – cũng là một tín đồ Công giáo thuần thành – phạm tội gì với nước Mỹ cũng bị giết, mà tới nay chưa thể nào tìm ra nguyên nhân? Tại sao Hoa Kỳ cố kéo dài cuộc chiến tranh, trong khi họ có thể đánh vào chỗ nhược của Việt Cộng bằng cách gửi một tối hậu thư cho Hà Nội phải rút quân về Miền Bắc vỹ tuyến 17. Nếu Hà Nội bất tuân, Không Quân Hoa Kỳ sẽ đánh tan con đê sông Hồng Hà trong mùa nước lớn? Đâu cần sử dụng chiến thuật ném bom “leo thang nhỏ giọt” để cho nhiều phi công chết một cách oan uổng? Tại sao Tổng thống Harry Truman từ chối lời đề nghị của Tướng Douglas MacArthur dùng bom nguyên tử chiến thuật diệt các Lộ Quân của Trung Cộng, để đem Thống Chế Tưởng Giới Thạch từ Đài Loan về lục địa nhằm chấm dứt chủ nghĩa cộng sản? Nước Tàu không còn chủ nghĩa cộng sản, thì Hồ Chí Minh đâu có thể làm nghĩa vụ Quốc tế? Tại sao Mỹ hất Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) ra khỏi Liên Hiệp Quốc, để cho Trung Cộng vào? Rõ ràng “Nhà Nước Ngầm” đã âm mưu từ hồi chiến tranh Việt Nam!

Tôi cho rằng Hoa Kỳ kỳ không dùng Không Lực dội bom xuống Điện Biên Phủ như lời cam kết với Pháp, vì Hoa Kỳ muốn nuôi cộng sản. Hoa Kỳ kéo dài chiến tranh Việt Nam để cho lực lượng khuynh tả (cộng sản) tại Mỹ có cớ gây Phong trào Phản Chiến và có đủ thời gian đào tạo học sinh, sinh viên tư tưởng “make love, not war). Nhà báo tả khuynh Walter Cronkite đưa hình ảnh chiến tran Việt Nam vào phòng khách là để chuẩn bị tư tưởng quần chúng Mỹ ủng hộ Phong trào Phản chiến. Thấy Phong trào Phản chiến Mỹ có thể giúp mình nổi danh, Nhất Hạnh liền nhảy vào để kiếm chút cháo!

Thủ tướng Mendes France ký Hiệp định Geneve chia đôi Việt Nam và Henry Kissinger bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa đều có gốc Do Thái. Còn nghi ngờ gì nữa sự bày mưu tính kế của các “Think Tank” Hoa Kỳ đạo diễn để cho Việt Cộng thắng trận? Nhờ sự xuất hiện của Tổng thống Donald Trump thì tôi mới nghĩ ra âm mưu của Chính quyền Mỹ đều do các học giả Do Thái điều khiển! Độc giả có nghĩ rằng “Nhà Nước Ngầm” bỏ tiền ra thuê tay chân bộ hạ trung tín của Tổng thống Richard Nixon gây ra vụ trộm Watergate để lật đổ Nixon không? Chúng ta thường nghe tới chữ “phù thủy Mỹ”, thì chính “Nhà Nước Ngầm” đẻ ra chiến lược để các Tổng thống Mỹ thi hành!

Chúng ta chỉ cần nêu câu hỏi: “Tại sao Tổng thống Harry Truman viện cớ dùng con sư tử Trung Cộng để chế ngự con gấu Bắc cực Liên Xô nhằm từ chối đề nghị của Tướng MacArthur diệt Trung Cộng, nhưng sau khi Liên Xô tan rã thì con gấu Bắc cực đâu còn là mối đe dọa nữa mà Mỹ vẫn nuôi Trung Cộng bằng cách giúp phát triển kinh tế, quân sự và kỹ thuật cao (High Tech)?”. Tại sao Hoa Kỳ từ chối cho Nga gia nhập NATO, sau khi Liên Xô tan rã, mà lại cho các nước chư hầu của Liên Xô được làm thành viên của NATO? Tại sao Liên Hiệp Quốc không đếm xỉa tới lời yêu cầu của Putin không đồng ý cho Ukraine sử dụng phòng thí nghiệm sinh học có thể chế bom vi trùng? Đưa ra chừng ấy câu hỏi thì chúng ta sẽ hiểu vì sao Tổng thống Donald Trump khen Putin thông minh ngay.

Xưa kia, tư tưởng Karl Marx đã làm điêu đứng nước Nga. Cho nên Gorbachev, Yeltsin, Putin đã mạt sát chủ nghĩa cộng sản rất nặng lời. Putin không muốn nước mình bị chủ nghĩa “cộng sản kiểu mới” giấu mình dưới thuật ngữ “Globalization” (Toàn Cầu hóa) một lần nữa áp đặt lên nước Nga. Ông Do Thái Karl Marx dùng chủ nghĩa vô thần đánh đổ tôn giáo, hô hào bọn khố rách áo ôm (bọn bần cùng) làm cuộc cách mạng thế giới. Ngày nay các ông Do Thái giấu mặt (deep state) cầm đầu Truyền thông, Tài chánh cũng vô thần bằng chủ trương cổ súy phá thai, đồng tính luyến ái, phong trào “Black Live Matter”, “Antifa” (đập phá di tích lịch sử). Đức Mẹ báo cho ba em bé mục đồng biết nước Nga sẽ trở lại đạo (Orthodox), nhưng Judaism (Do Thái giáo) không cho Nga trở lại đạo Christian, bằng cách cấm Nga vào NATO để gài Putin vào cuộc chiến Ukraine.

Mời độc giả mở đường link dưới đây thì sẽ thấy cuộc chiến giữa Nga và Ukraine là cuộc chiến tranh tôn giáo đang xảy ra:  https://www.youtube.com/watch?v=keXNq72cLw8

Vậy người Việt Nam Cộng Hòa, với kinh nghiệm cộng sản, phải hiểu Putin tấn công Ukraine cũng giống như Trung tướng Đỗ Cao Trí tấn công Kampuchia để tiêu diệt căn cứ hậu cần của Việt Cộng trên đất Miên. Việt Cộng cũng tuyên truyền buộc tội Tướng Đỗ Cao Trí “xâm lăng” giống như Truyền thông Cánh tả buộc tội Putin “xâm lăng” vậy.

Người Việt cảm thấy thương tâm vì thấy dân Ukraine chết trong chiến tranh. Vậy ai thương dân Việt Nam bị chết trong chiến tranh Việt Nam, chết trên biển cả, trong rừng sâu? Tại sao không thương tâm cho hàng triệu người chết trên thế giới bởi con Virus Trung Cộng? Truyền thông ở Mỹ đều do người Do Thái cầm đầu đang “điều hướng” tình cảm của quý vị đấy, biết không? Nếu dựa vào thông tin (ngay cả từ đài Fox, News Max) chưa chắc đã chính xác để bình luận thời cuộc đâu!

Tuy Do Thái được Hoa Kỳ (con cái của Chúa Christ) cứu công dân Do Thái khỏi nạn diệt chủng của Hitler trong Đệ nhị Thế chiến, nhưng có những phần tử Do Thái vẫn căm thù Chúa Jesus Christ đày họ hai ngàn năm. Tuy Tổng thống Donald Trump đã dàn xếp thành công các Quốc gia Hồi giáo ở Trung Đông ký Hiệp ước Hòa bình Abraham với Do Thái, nhưng các ông chủ Truyền thông Do Thái vẫn chống Tổng thống Trump. Bởi Do Thái loại ấy vẫn không Đức Jesus Christ là đấng cứu thế!

Một mình ông Do Thái Karl Marx chống Chúa cũng đủ làm điêu đứng thế giới. Nay một tập đoàn Do Thái đứng đầu các “Think Tank” Hoa Kỳ, các định chế Tài chánh như Quỹ Tiền tệ Thế giới (International Money Fund),  Ngân hàng Thế giới (World Bank), Quỹ Dự trữ Liên bang (Federal Reserve) thì họ khuynh đảo thế giới dễ dàng như trở bàn tay.

Nếu cuộc bầu cử Lưỡng Viện Quốc Hội Hoa Kỳ năm nay mà đảng Dân Chủ vẫn chiếm đa số thì ta có thể coi như nền văn minh của nước Mỹ và của Thế giới coi như cáo chung. Nhận định và Phân tích của người viết đúng hay sai, xin quý vị cao kiến vui lòng chỉ giáo. Nhấn mạnh một lần nữa để độc giả hiểu rằng tôi không mắc mới gì đứng về phe với Tổng thống Putin. Bằng Phong chờ đợi phản biện của quý vị thức giả bằng lý lẽ thuyết phục.

Hẹn độc giả bài viết tiếp theo.

Bằng Phong Đặng văn Âu.

Địa chỉ nhà: 10200 Bolsa Avenue, Westminster, CA.92683

Địa chỉ Email: bangphongdva033@gmail.com

Telephone: 714 – 276 – 5600

 

 

Saturday, April 23, 2022

 

“CÁI TÔI” ĐÁNG GHÉT.

Bằng Phong Đặng văn Âu.

Lời mở đầu: Trong Việt Nam có câu than thở rất phổ biến: “Lịch sử là môn học mà người Thầy không muốn dạy và người học trò không muốn học”. Tại vì chế độ cộng sản không cho phép ai được quyền nói thật. Tại Hải ngoại, không có luật nào cấm sử gia viết thật. Nhưng họ sợ bị ném đá, cho nên không tiện viết ra Sự Thật. Tình cờ “lạc đường vào lịch sử”, tôi xin viết ra một số góc khuất của lịch sử để đời sau hiểu dân tộc ta đã có một thời kỳ như thế.

Là một người có trình độ học vấn khiêm tốn, nhưng tôi đã đọc ít nhất hơn một lần câu tiếng Pháp “Le moi est haïssable” (Cái tôi đáng ghét) của nhà tư tưởng Blaise Pascal. Nhưng tôi có ý nghĩ khác một chút: “Cái tôi đáng ghét thật đấy, nhưng ghét vừa phải thôi. Nếu ghét quá xá Cái Tôi của mình thì không còn lòng tự ái, tự trọng để sống cho ra Con Người”.

Tôi có một số bạn hữu rất tốt, rất chân tình mà tôi rất quý trọng và luôn luôn nhớ ơn. Xin kể ra đây hai người bạn. Đó là Trung tá Không Quân Hoàng Đình Ngoạn, xuất thân Khóa 17 Võ Bị Đà Lạt và Trung tá Nguyễn Sĩ Trấp, Trưởng Ty An Ninh Quân Đội tại Mỹ Tho trước năm 1975. Hai anh ân cần bày tỏ lời khuyên: “Nhận thấy những bài viết của bạn (Bằng Phong) rất có giá trị, nhưng tôi khuyên bạn nên giảm bớt nói về ‘Cái Tôi’ của mình”. Nghe xong, tôi ghi nhận, không cãi, vì hai anh có lòng thương mình thì mới khuyên mình.

Tôi biết tôi bị nhiều người ghét, vì tôi dám sống như nhà thơ Phùng Quán, tác giả bài thơ “Lời Mẹ Dặn”. Sống trong thời đại giả hình, thời của bọn làm bạc giả và bọn xài bạc giả mà bạn quyết sống làm người chân thật, ắt bạn sẽ bị thiên hạ ghét là điều đương nhiên. Tôi đủ thông minh để hiểu điều đó, nhưng tôi không thay đổi bản chất, vì đó là cách tôi báo hiếu Mẹ tôi, một bà Mẹ dạy con giống như bà Mẹ của thi sĩ Phùng Quán.

Hôm nay, tôi xin trần tình những gì tôi đã viết để hai anh bạn quý của tôi hiểu.

Tôi có duyên may sinh ra và lớn lên trong một gia đình gia giáo, có bà con giữ trọng trách liên quan đến vận nước nổi trôi, nên biết một số chuyện mà sử sách không ghi chép. Nói theo cách nói của bà Nguyễn Phương Hằng là “chỉ có người trong cuộc, mới biết chuyện trong kẹt”. Trót mang danh con nhà danh giá, nên tôi có bổn phận bảo vệ gia phong. Vì thế, tôi tôn trọng danh dự người khác để không bao giờ bới móc đời tư của bất cứ ai, chế giễu ngoại hình khuyết tật của bất cứ ai một cách độc ác, thiếu văn hóa. Tôi không bao giờ hàm hồ vu vạ cho người khác để làm tổn thương họ. Tôi đặt thẳng vấn đề với đối tượng để họ trả lời những hoài nghi, thắc mắc của mình. Tôi từng đặt câu hỏi một cách lịch sự cho nhiều người với tiêu đề: “Anh là ai?”

Tôi đã hỏi thẳng Kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa – cháu ruột Tổng Bí thư Việt Cộng Mười Cúc Nguyễn văn Linh – đỗ bằng Hautes Études Commerciales ở Pháp, tại sao không làm việc ở Pháp mà lại sang Mỹ, gia nhập Mặt trận Hoàng Cơ Minh để làm xếp Tổng vụ Tuyên huấn?

Tôi đã hỏi thẳng Tiến sĩ Trần Quang Thuận, pháp danh Trí Không, phát ngôn viên chính thức của Thầy Trí Quang, người có công lớn giật sập chế độ Đệ Nhất VNCH, tại sao không ở lại trong nước để hưởng thành quả Cách Mạng, mà lại sang Mỹ để hô hào người tỵ nạn cộng sản về nguồn? Tôi yêu cầu Sa di Trần Quang Thuận, đệ tử của Thích Đôn Hậu, tại sao ngày nay ông không lên án Việt Cộng bách hại Phật giáo, như đã lên án Tổng thống Ngô Đình Diệm?

Tôi đã hỏi thẳng Hoàng Cơ Định – em trai trùm Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh – người giữ túi bạc để phát lương cho Đại tá Phạm văn Liễu, Nguyễn Kim Huờn và băng đảng. Tại sao Hoàng Cơ Định giấu nhẹm cái chết của Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh đến 14 năm mới tiết lộ và không nhận tấm hình người nằm chết do ông Chánh Án đưa ra là anh ruột của mình?

Những nhân vật tôi đặt câu hỏi là những bộ mặt quần chúng (public figure). “Họ Là Ai?”, giống như nhạc sĩ Việt Khang làm bài nhạc “Anh Là Ai?” để hỏi mấy thằng Công An Việt Cộng. Cái hèn rất đáng khinh bỉ của những người bị tôi đặt câu hỏi đều im thin thít như thịt nấu đông. Họ chỉ dùng “dư luận viên” – một lũ con nhà không ai dạy – chửi bới, mạ lỵ rất bẩn thỉu trên diễn đàn. Tôi chấp nhận bị ghét, nhưng tôi không để ai khinh. Cách sống không cúi đầu, không im lặng của tôi là biểu hiện tác phong của Kẻ Sĩ phải có.

Xuất thân là chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa (tức là Kẻ Sĩ), tôi tự hào mình đã phục vụ trong một chính thể xứng đáng. Tiếc rằng có những phần tử vô ý thức đã làm xấu hình ảnh của chế độ. Để bảo vệ thanh danh của chính thể, tôi không ngần ngại nói thẳng quan điểm của mình đối với bất cứ nhân vật nào làm phương hại chính nghĩa Quốc gia, dù địa vị lớn tới đâu. Tôi sử dụng chính danh (chẳng bao giờ dùng nặc danh), với tên do cha mẹ đặt, địa chỉ nhà, địa chỉ Email và số điện thoại ở cuối mỗi bài viết. Không phải vì muốn khoe “Cái Tôi”, nhưng đó là cách tôi muốn tạo niềm tin với độc giả rằng đây là một người viết thật, có trách nhiệm với độc giả, đề cập đến việc thật. Chưa làm được điều gì to tát cho Tổ Quốc, nhưng với sự suy nghĩ và phong cách chững chạc ấy, kẻ thù không thể coi thường Người Lính Việt Nam Cộng Hòa.

Xin phép nêu lên một số sự kiện mà tôi đã từng đề cập về “Cái Tôi Đáng Ghét” của tôi:

1/ Mới chỉ là viên Trung Úy trẻ tuổi, làm hoa tiêu phụ (co-pilot), trong buổi họp thuyết trình hành quân cầu Không Vận, tôi dám đứng lên hỏi thẳng vị Chỉ huy trưởng: “Tại sao đặt tên chiến dịch là ‘Kỳ-Duyên-Mai’, mà không lấy tên một vị anh hùng trong lịch sử để đặt?”. Sở dĩ tôi nêu lên câu hỏi đó là vì tôi tự hào mình là người lính VNCH, chứ không giống như lính Việt Cộng tự hào là “Bộ Đội Cụ Hồ”. Anh em chúng tôi chiến đấu cho Quốc gia, chứ không chiến đấu cho bất cứ cá nhân nào. Tôi kể lại sự kiện này không phải để khoe mẽ cá nhân mình ngon. Tôi muốn nói với người cộng sản rằng người lính Miền Nam có thể tự do bày tỏ quan điểm của mình mà không sợ cấp chỉ huy trù dập.

2/ Tôi tường thuật chuyện bố tôi được người bạn đồng nghiệp – bác sĩ Lê Đình Thám – thuyết phục bố tôi tham gia đảng cộng sản, nhưng bố tôi từ chối, chỉ hỏi: “Này anh Thám ơi, cộng sản chủ trương ‘vô gia đình – vô tổ quốc – vô tôn giáo’. Nếu một ngày nào đó Hồ Chí Minh đánh đuổi được Thực dân Pháp ra khỏi nước, chúng ta còn lại gì để phục vụ?” Kể lại chuyện này, tôi không hề có ý khoe mình có ông bố là bác sĩ. Tôi chỉ muốn nói rằng giá như các Giáo sư dạy triết danh tiếng như Trần Đức Thảo, Trần văn Giàu, Tạ Quang Bửu … có cái trực giác bén nhạy giống bố tôi, thì không đời nào tham gia đảng cộng sản để cho dân tộc mình bị họa cộng sản! Những người danh tiếng mà kém nhận thức về kẻ thù, thì kéo cả dân tộc xuống vực thẳm!

3/ Mẹ tôi kể, một hôm bố tôi đi làm việc về, nét mặt buồn bã, bỏ chiếc cặp xuống ghế, đến nằm vật ra giường, không nói một lời nào, chỉ thở dài. Mẹ tôi hỏi nhiều lần có chuyện gì buồn, bố tôi vẫn không nói. Cuối cùng, bố tôi tiết lộ: “Hôm nay có ông Đại sứ Nhật lai Pháp đến gặp cụ Thủ tướng Trần Trọng Kim đề nghị họ sẽ giúp Chính phủ ta diệt sạch đám cán bộ cộng sản Hồ Chí Minh để trừ hậu họa cho Việt Nam. Cụ Kim từ chối và nói rằng chuyện nội bộ của Việt Nam, anh em trong nhà chúng tôi tự giải quyết với nhau”. Tôi kể chuyện này để cho độc giả biết rằng một nhà sử học danh tiếng như Cụ Kim được đời sau tôn vinh, mà không thấy cộng sản là tai họa cho đất nước, lại còn coi chúng là anh em trong nhà, thì nước mình mới ra nông nỗi như ngày nay. Sở dĩ tôi biết sự kiện này (mà nhiều người không biết) là vì tôi có ông bố làm Bí thư cho Cụ Kim để ngầm trả lời thắc mắc của độc giả hỏi tại sao một thằng con nít như tôi mà biết chuyện của người lớn. Sau này, giáo sư Lê Xuân Khoa có viết trong sách của ông về sự kiện ông Đại sứ người Nhật đề nghị với Cụ Thủ tướng Trần Trọng Kim, chứng tỏ rằng tôi không phịa chuyện.

4/ Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, sau khi theo cộng sản một thời gian dài, quá ngao ngán sự “chó đẻ” của cộng sản, than thở như sau: “Vô sản không đáng sợ bằng vô học”. Từ Hoa Kỳ, tôi điện thoại về trách ông: “Tại sao anh là nhà trí thức, một học giả viết nhiều cuốn sách giá trị, tới giờ này mới khám phá ra sự vô học là đáng sợ? Tại sao Cụ thân sinh của anh là vị quan thanh liêm, chẳng phạm tội tình gì với đồng bào, với đất nước, mà bị cộng sản mang ra đấu tố cho đến chết, nhưng anh vẫn nhắm mắt đi theo cộng sản là nghĩa làm sao?” Bác sĩ Viện thật thà thú nhận: “Tại vì mình ngây thơ, cậu ạ!”. Tôi nói: “Không! Anh không ngây thơ!” Bác sĩ Viện cứ nhất quyết lặp đi lặp lại ông ngây thơ. Cuối cùng, tôi nói: “Không! Anh không ngây thơ. Tại vì anh ngu”. Thật thương cho bác sĩ Viện hiền lành, không giận thằng em dám hỗn láo.

Đọc mẩu chuyện nêu trên, chắc chắn có độc giả sẽ hỏi rằng một viên phi công không ai biết tên tuổi mà có thể gọi điện thoại cho bác sĩ Nguyễn Khắc Viện và dám mắng ông ngu. Cho nên, tôi phải viết bác sĩ Nguyễn Khắc Viện là anh bà chị dâu của tôi thì mới có mối liên hệ dòng họ để trò chuyện với ông, chứ tôi không phịa chuyện để … nổ!

Năm 1950, nghe tin người anh thúc bá Đặng văn Việt đánh tan hai Binh Đoàn Thực dân Pháp trên đường số 4, tôi đã tung quả đấm tay lên không trung và hoan hô Hồ Chí Minh, vì lúc bấy giờ, tôi không biết Hồ Chí Minh là tên tội đồ. Qua năm 1952, chứng kiến mấy tên du kích chém bay đầu người phu xe kéo tên Chu, chỉ vì cái tội kéo xe cho Pháp, tôi biết ghê tởm bọn du kích của Hồ Chí Minh ngay. Năm 1954, gần một triệu người Miền Bắc rời bỏ quê cha đất tổ, di cư vào Nam vì quá kinh hoàng cuộc thảm sát ghê rợn trong Cải Cách Ruộng Đất. Thế mà biến cố lớn lao ấy không đủ sức mở mắt bọn trí thức Miền Nam, vẫn có đứa ngấm ngầm hoạt động cho Việt Cộng. Với sự dẫn chứng đâu ra đó, tôi là người duy nhất dám viết (phần lớn) người Việt Nam càng có bằng cấp càng to càng ngu và hèn. Tất nhiên, khi viết câu ấy, không những làm cho các vị khoa bảng nổi giận, mà còn làm cho những người quen thói nịnh hót, xum xoe quanh bọn trí thức dỏm cũng … thù ghét theo. Những tên trí thức vô tích sự được bọn xu nịnh ton hót càng làm cho họ trở nên kênh kiệu hơn, ngạo mạn hơn, coi anh em quân nhân chúng tôi chả ra gì!

Là thành viên cao cấp của Nội các, Vũ văn Mẫu thừa biết Tổng thống Ngô Đình Diệm không hề có chính sách đàn áp Phật giáo. Chùa chiền đổ nát sau chiến tranh được Chính phủ trùng tu. Các tu sĩ Phật giáo được ra nước ngoài du học và trường Bồ Đề mở ra các nơi. Ở cương vị Bộ trưởng Ngoại giao, chắc chắn Vũ văn Mẫu thường được nhân viên tình báo, phản gián thuyết trình để biết Việt Cộng đứng đằng sau Phật giáo tranh đấu lật đổ Chính quyền. Lại thêm, báo cáo của phái đoàn điều tra Liên Hiệp Quốc xác nhận chế độ không hề đàn áp Phật giáo. Nhưng Vũ văn Mẫu cạo đầu, từ chức để ủng hộ Thầy Trí Quang. Tôi chê thạc sĩ Vũ văn Mẫu là loại người làm chính trị thời cơ hội (opportunist) và phản quốc. Sau đảo chánh, Vũ văn Mẫu vẫn được đi dạy Trường Luật, vẫn  được đứng đầu liên danh Hoa Sen tranh cử vào Thượng Viện, thì nước phải mất là điều đương nhiên. Vào giờ thứ 25 của lịch sử, Vũ văn Mẫu còn cố vồ cho được cái chức Thủ tướng mà không sợ lưu lại ô danh cho con cháu đời sau! Điều đáng buồn và đáng xấu hổ là không một trí thức Phật giáo nào lên án cuộc đấu tranh bịp bợm của Khối Ấn Quang là phi đạo đức và phản quốc! Gần đây, Cao Huy Thuần và Thái thị Kim Lan khóc sướt mướt trước cái chết của tên tội đồ Trí Quang và phong chức cho tên tội đồ là Bồ Tát! Cái mảnh bằng Tiến sĩ của loại trí thức này không đáng dùng để chùi … cái đĩa dơ!

Văn hào Nhất Linh Nguyễn Tường Tam bị các đàn em khai ông có tham gia cuộc đảo chánh của Vương văn Đông, Trần Đình Lan, Nguyễn Chánh Thi năm 1960. Chính quyền không bắt ông vô tù, chỉ phái ông Lê Nguyên Phu đến hỏi thăm, trò chuyện một cách thân tình để tìm hiểu thực hư. Văn hào Nhất Linh yêu cầu không đối chất với nhân chứng ở tòa. Ông Lê Nguyên Phu không dám bảo đảm điều kiện của nhà văn đưa ra. Văn hào Nhất Linh trước khi tự tử, để lại một bức thư tuyệt mệnh “Đời tôi để lịch sử xử. Tôi không chịu để ai xử cả. Sự việc đem các đảng phái quốc gia đối lập ra xét xử là một trọng tội đối với quốc gia, chỉ đưa đất nước rơi vào tay Cộng Sản. Vì thế tôi tự hủy mình cũng như Hòa Thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu là để cảnh cáo những ai chà đạp mọi thứ tự do.

Ký tên: Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, Ngày 7 tháng 7 năm 1963.”

Vì Cụ Nhất Linh viết “để lịch sử xử”, tôi là kẻ hậu sinh tầm thường, không dám xử Cụ, mà chi nhận xét. Tôi cho rằng bức thư tuyệt mạng của Cụ Nhất Linh là một sự ngạo mạn, coi mình đứng trên luật pháp. Từ chối đối chất với nhân chứng trước tòa là vì có điều gì khuất tất, muốn giấu diếm. Đó là thái độ bất xứng của kẻ Sĩ. Hơn nữa, cụ không hiểu nguyên tắc đấu tranh dân chủ của đối lập là ở Nghị trường. Hành động đảo chánh bằng quân sự là phi pháp. Ngoài chức danh nhà văn, Cụ Nhất Linh còn là lãnh tụ đảng chính trị mà cụ cho rằng Ngài Quảng Đức tự thiêu thì thật là tai hại, vì bọn tín đồ mù quáng sẽ vin vào lời của Cụ để quả quyết Ngài Quảng Đức tự thiêu là thật, chứ không phải do sự dàn dựng của Việt Cộng đứng đằng sau. Giá như một người dân bình thường, viết một bức thư cao ngạo như thế, người ta xem đó là sự ngông cuồng. Nhưng Cụ Nhất Linh là nhân vật quốc tế, thì với một bức thư như thế, Cụ đã làm cho lý tưởng bảo vệ tự do của nền Cộng Hòa ở Miền Nam mất chính nghĩa. Tôi không dám vô lễ với vị tiền bối mà tôi vô cùng ái mộ. Nhưng tôi phải nói lên quan điểm của kẻ hậu bối nhằm giúp cho các nhà hoạt động tương lai hiểu rằng Chính Nghĩa là rất quan trọng. Anh Nguyễn Tường Thiết – con trai Cụ Nhất Linh – không phản đối bài viết của tôi, chứng tỏ anh Thiết đồng ý với người lính dám nói sự thật. Tất nhiên người ái mộ Cụ Nhất Linh quen thói bầy đàn ghét tôi, nhưng chỉ xầm xì với nhau, chứ không dám công khai lên tiếng phản bác bài viết của tôi.

Nhân danh là một người lính tác chiến vì lý tưởng tự do, tôi đánh giá những trí thức theo Hồ Chính Minh và chống Ngô Đình Diệm đều ngu.

a/ Người Tàu luôn luôn coi dân Nam ta là man di, mọi rợ, không bao giờ từ bỏ giấc mộng thôn tính nước Việt Nam và đồng hóa dân mình. Hồ Chí Minh chọn kẻ thù truyền kiếp làm anh em là cõng rắn cắn gà nhà. Đảng cộng sản đề ra chủ trương “Đào tận gốc, trốc tận rễ thành phần trí, phú, địa, hào” là có mục đích không cho phép ai được làm người trí thức để dạy dân và “Bần cùng hóa nhân dân” là đẩy toàn dân đi ăn trộm, vì cổ nhân day: “bần cùng sinh đạo tặc”. Thực tế đã và đang diễn ra trước mắt trên đất nước Việt Nam, không ai có thể chối cãi.

b/  Vua Bảo Đại chọn ông Ngô Đình Diệm làm lãnh đạo Miền Nam là quá đúng. Bởi vì Cụ Diệm khi làm Thượng thư Bộ Lại (Thủ tướng) đòi hỏi Thực dân Pháp thay đổi đường lối cai trị dân ta đúng như chiêu bài “khai hóa dân tộc chậm tiến” mà họ nêu ra. Thực dân Pháp không chấp nhận, Cụ Diệm từ chức. Điều đó chứng tỏ Cụ Diệm là người không màng danh lợi. Cụ đặt quyền lợi dân Việt lên trên hết, giống như Tổng thống Donald Trump đã thể hiện “America First”. Tổng thống Diệm áp dụng lời dạy “Việc nhân nghĩa cốt ở an dân, Quân điếu phạt trước lo trừ bạo” của Nguyễn Trãi là quá đúng cho nhà lãnh đạo yêu nước yêu dân. Không giống như Hồ Chí Minh tuyên bố một đàng làm một nẻo, Cụ Diệm đã “tri hành hợp nhất”. Bằng cớ là ông Hà Thúc Ký kéo quân ra Ba Lòng lập chiến khu chống chế độ và âm mưu ám sát Tổng thống. Nhưng khi bị bắt, ông Hà Thúc Ký bị bỏ tù mà không bị đánh một bạt tai. Ông Diệm còn bảo ông Cao Xuân Vỹ giúp đỡ tài chánh cho bà Hà Thúc Ký nuôi con ăn học. Ngoài ra, nhà văn Nhất Linh cũng được ông Diệm giúp đỡ tài chánh. Nhờ đó, nhà văn Nhất Linh mới có phương tiện lên Đà Lạt kiếm hoa lan rừng, sống phong lưu như tao nhân mặc khách giữa thời tao loạn.

Lúc ở Tiểu bang Virginia, tôi thường lui tới thăm viếng Đại tá Nguyễn văn Y – thân sinh ca sĩ Nguyệt Ánh – vừa để trò chuyện với người đồng hương, vừa để tìm hiểu lịch sử thời Việt Nam Cộng Hòa. Đại tá Y – nguyên Tổng Giám đốc Cảnh sát thời Đệ Nhất Cộng Hòa – cho tôi biết việc ông Diệm sai đốt tài liệu Dương văn Minh thông đồng với Việt Cộng và việc bác sĩ Phan Quang Đán bị Cảnh sát bắt sau khi cuộc đảo chánh của Vương văn Đông ngày 11 tháng 11 năm 1960 thất bại. Bác sĩ Phan Quang Đán từng là Chủ tịch Sinh viên Công giáo tại Hoa Kỳ, có lẽ không được ông Diệm tin dùng, nên theo phe đảo chánh, giống như Hoàng Cơ Thụy, anh của Hoàng Cơ Minh. Cụ Đán tỏ ra hối hận việc mình làm, khóc lóc thú tội rất thảm thiết. Cảnh sát trao cuộn băng ghi âm cho bác sĩ Trần Kim Tuyến – Giám đốc Sở Nghiên cứu Chính trị – để trình lên ông Cố vấn Ngô Đình Nhu. Có đề nghị đưa cuộn băng lên đài để phát thanh cho đồng bào nghe, nhưng Tổng thống không cho phép và nói rằng chúng ta khác với Hồ Chí Minh nhục mạ người trí thức, tôi không muốn làm nhục bác sĩ Phan Quang Đán. Lời kể của Đại tá Y trùng khớp với những gì bác sĩ Trần Kim Tuyến cho tôi biết trước năm 1975.

Trưa ngày 1 tháng 11 năm 1963, Chỉ Huy trưởng Liên Phi đoàn ra lệnh nhân viên tập họp trước sân cờ và tuyên bố: “Hội đồng Quân nhân Cách mạng cho biết cuộc đảo chánh bắt đầu. Ai theo phe đảo chánh đứng sang một bên, ai không theo đứng sang một bên”. Tất cả mọi người đứng sang phe theo đảo chính, trong đó có cả tôi. Giá như lúc bấy giờ tôi có sự hiểu biết về Tổng thống Ngô Đình Diệm là nhà ái quốc, thì dù có chết tôi cũng không đứng về phe đảo chính.

Đại tá Nguyễn Hữu Duệ viết hồi ký, kể rằng ông xin phép Tổng thống Diệm dùng lực lượng Phòng vệ Phủ Tổng thống đến Tổng Tham Mưu bắt trọn đám Tướng lãnh âm mưu đảo chánh, nhưng Tổng thống không cho và còn nói không muốn anh em Quân Đội cùng một nhà chém giết lẫn nhau. Nếu Tướng lãnh muốn ông từ chức, thì ông sẵn sàng từ chức. Đại tá Duệ hỏi: “Thưa Tổng thống, nếu chúng ta không hành động, nhỡ các Tướng lãnh giết mình thì sao?” Tổng thống không do dự, nói lớn: “Chết thì đã sao?”. Theo tôi nghĩ, Tổng thống Ngô Đình Diệm với tình yêu nước nồng nàn, với lòng nhân ái và sẵn sàng chết để anh em Quân Đội đoàn kết nhau, ông xứng đáng là một nhà lãnh đạo chính trị mà Vatican cần nghiên cứu để phong Thánh.

Tôi thật sự khinh cái hèn của những ông Tướng chủ mưu đảo chánh giết anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm một cách dã man, rồi tử hình ông Ngô Đình Cẩn – một người đang mắc bệnh nặng. Nếu Tổng thống Diệm phạm tội phản quốc, tại sao không đưa ông ra tòa xét xử đàng hoàng? Tại sao không có ông Tướng nào vỗ ngực xưng tên mình đã giết một người phản quốc, một tên tội đồ? Chẳng hay các vị Tướng ấy có cảm thấy nhục khi bị Tổng thống Lyndon B. Johnson gọi là “A gang of thugs” (Một lũ côn đồ)? Tại sao không có ông Tướng nào lên tiếng về việc ông Đại tướng Dương văn Minh phả bỏ Quốc sách Ấp Chiến Lược? Tại sao không có ông Tướng nào đòi hỏi Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, Tổng thống Thiệu phải mở cuộc điều tra vụ buôn lậu “Còi Hụ Long An” để thanh minh lời đồn trong dân chúng bà Khiêm, bà Thiệu là chủ mưu của vụ buôn lậu? Tại sao Chính phủ không thanh tẩy những phần tử xấu trong chế độ, để cho Phó Tổng thống Trần văn Hương phải than thở: “Nếu diệt hết tham nhũng thì lấy đâu ra người làm việc?” Tại sao không có chính sách gia cư cho thương binh nghèo khổ, để cho họ phải đi cắm dùi khắp nơi, thì lính ngoài tiền tuyến làm sao yên lòng chiến đấu?

Tôi viết loạt bài này, không hề có chủ đích bôi nhọ chế độ Cộng Hòa của Miền Nam, mà tôi đã hết lòng phục vụ. Chiến đấu cho lý tưởng tự do dân chủ – khát vọng chính đáng của toàn dân Việt Nam – là nghĩa vụ thiêng liêng mà ai nấy đều trân trọng. Chỉ tiếc thành phần có trách nhiệm với đất nước như trí thức, lãnh đạo tôn giáo, lãnh đạo chính trị, Tướng lãnh bất xứng, không ý thức bọn đầu nậu cộng sản ở Bắc Bộ phủ có chủ trương súc vật hóa người mình để dâng nước Việt Nam cho Trung Cộng. Cho nên, họ đã không một lòng một dạ đoàn kết tiêu diệt kẻ thù, đưa đến hậu quả: “một chủ nghĩa man rợ đã đánh bại một nền văn minh”. (Dương Thu Hương).

Mẹ tôi dặn: “Lớn lên, con làm nghề gì cũng được, nhớ đừng làm nghề viết văn.” Tôi hỏi tại sao, Mẹ tôi giải thích: “Mẹ thấy các bạn học của Mẹ làm nhà văn, ông nào ông nấy nghèo xác nghèo xơ, không đủ tiền nuôi vợ con. Lại còn nghiện ngập theo nàng tiên nâu, rồi tự bào chữa ‘yên sĩ phi lý thuần’ rất sa đọa, rất bệ rạc”. Vâng lời Mẹ, tôi không theo đuổi nghề viết văn. Là người lính thua cuộc, không còn cây súng, tôi dùng cây bút (bây giờ là bàn phím computer) với lập trường kiên định để trực xạ vào quân thù cộng sản và tay sai. Tôi không mưu sinh bằng nghề cầm bút, chưa hề nhận một trinh, một hào tiền nhuận bút, nên không làm bồi bút cho bất cứ ai. Tôi không nhận mình là nhà văn, để mọi người đừng tưởng tôi cầm bút, vì tham chiếc chiếu trên, chiếc chiếu dưới trong Văn Đàn. Tôi đơn thuần chỉ là một chiến sĩ kiên trì chống chủ nghĩa cộng sản, nguyện chiến đấu cho tới hơi thở cuối cùng, dù bị ai ghét cũng cam đành!

Bằng Phong Đặng văn Âu

10200 Bolsa Avenue, Westminster, California 92683

Email address: bangphongdva033@gmail.com

Telephone: 714 – 276 – 5600

 

 

 

 

 

Sunday, April 17, 2022

HỒI ÂM DÒNG ĐỜI

 

HỒI ÂM DÒNG ĐỜI.

Lời giới thiệu: Dưới đây là bài văn do Bằng Phong Đặng văn Âu đóng vai cô Nga Sài Gòn chấp bút cho nhân vật trong truyện ngắn của Đại tá Không Quân Đặng Duy Lạc thuật lại mối tình thuở học trò thơ dại. Nhiều tờ báo và trang mạng đăng lại. Nhà văn Đào Vũ Anh Hùng không biết Bằng Phong Đặng văn Âu là tác gia, nên ông đã đăng bài văn lên Giai phẩm Lý Tưởng Không Quân với lời giới thiệu rất trân trọng. Nhiều độc giả trên diễn đàn cũng chuyển bài viết cho Bằng Phong đọc. Vừa rồi, Bằng Phong đã bạch hóa sự thật để cho độc giả không bị rơi vào trường hợp nhiều người tự nhận mình chính là tác giả của những bài thơ của TTKH. Hai nhân vật từng cộng tác với Bằng Phong là Trung tá Trần Trung Chính – bút hiệu Mây Trời – và Trung tá Nguyễn Tiến Thành – bút hiệu Phượng Ly biết rõ Bằng Phong là tác giả, nhưng không tiết lộ theo lời giao hẹn giữa nhau.

Dưới đây là bài giới thiệu của anh Đào Vũ Anh Hùng viết về nhân vật Nga Sài Gòn.

 

Đầu tháng 9-96, báo Ngày Nay ở Houston có đăng một lá thư, tác giả là một người đàn bà ký tên Nga (Sàigòn) gửi cho người yêu cũ Duy, tức Đại Tá Không Quân Đặng Duy Lạc, người đã viết đoản văn “Giòng Đời” trên Đặc san Ngàn Sao của Hội Không Quân Houston, số mùa Hè 92 với bút danh Duy Lạc.

“Giòng Đời” là một bài văn hồi tưởng về cuộc tình lỡ của tác giả trong thời niên thiếu. Đó là mối tình đầu, như rất nhiều mối tình đầu dang dở khác, ở cái thời đại mà tình yêu trai gái coi như trái cấm bởi vòng rào luân lý, và quan niệm tương giao nam nữ khắt khe của xã hội đương thời. Biết bao mối tình trong sáng, ngây thơ, chất phác, như những đóa hoa yêu hoa lệ nở rụt rè, rồi tan vỡ, để lại trong văn chương nhiều chuyện tình đẫm lệ, dư âm còn mãi đến bây giờ.

Trong phần giới thiệu, Ngày Nay viết: “… Tác giả (Duy Lạc) kể lại mối tình đầu của mình vào thời niên thiếu, lúc cắp sách đến trường huyện với một người con gái tên Nga học cùng lớp. Lúc đó, vào dịp toàn dân kháng Pháp, 1945. Thời thế sau đó đổi thay, ông Duy Lạc vào Nam, rồi trở thành một Sĩ quan Không Quân Việt Nam Cộng Hòa. Còn cô Nga trở thành một người lính của phía bên kia, vượt Trường Sơn vào Nam .

Chuyện không ngờ là tờ Ngàn Sao lọt được về Sàigòn, và cô Nga ngày xưa được đọc bài “Giòng Đời” và sau đó, viết một bài chuyển ra ngoài với tên “Hồi Âm Giòng Đời”… Đây là một bức thư tâm tình riêng tư giữa hai người bạn lòng, nhưng tình tiết ghi lại một giai đoạn phân ly nghiệt ngã của đất nước…”

Bài “Hồi Âm Giòng Đời” đăng trên Ngày Nay đã gây một xôn xao dư luận, nhất là trong dư luận Không Quân. Ở một vài nơi, có những báo khác đăng lại. Đây là chuyện tình cảm động của thế hệ chúng ta, với đầy đủ tính cách bi thương, lãng mạn, chung thủy và đằm thắm biết bao, trong bối cảnh đau thương của đất nước, với cuộc phân tranh đối đầu chủ nghĩa, huynh đệ tương tàn.

Lý Tưởng đăng lại bài văn “Hồi Âm Giòng Đời”, vì thứ nhất, ngoài tính chất bi thảm của một câu chuyện đầy bi thảm, còn vì cái đoạn kết bất ngờ và đau xót là Đại Tá Đặng Duy Lạc đã chết đường đột, ít ngày sau khi bài báo được phổ biến. Có thể chăng, lá thư tình gởi muộn đã làm anh rúng động và cảm xúc, vì ăn năn, hờn trách mình ngày xưa đã rụt rè, yêu không dám ngỏ và đã hiểu lầm, hóa nên cuộc tình thành chia biệt 40 năm…?  Nỗi riêng nhớ ít tưởng nhiều… (Kiều)

Phải chăng chính cái tâm “quán tưởng” theo kinh Phật mà Nguyễn Du đề cập đến rất nhiều lần trong truyện Kiều, đã khiến con người nòi tình nghệ sĩ Đặng Duy Lạc tưởng tượng thêm ra những tình tiết đẹp đẽ cho mối duyên dang dở, để càng nặng lòng tiếc nuối, âu sầu, đắm đuối mình trong niềm ai oán với trò chơi nghiệt ngã của định mệnh? Anh khổ dau, dằn vặt bởi giòng chữ bùi ngùi thương tội “Anh đã từ phương xa lại, mình gặp gỡ nhau, anh gieo vào lòng em một vết thương, rồi anh lẳng lặng ra đi không một lời từ biệt…” khiến “Anh Duy thân mến” của Nga đã bơi ngược giòng đời, day dứt niềm thương, đem xuống tuyền đài mối tình đằng đẳng chưa tan.

Thứ nữa, “Hồi Âm Giòng Đời” của Nga Sàigòn có một giá trị văn chương cao vượt trên “Giòng Đời” của Duy Lạc khó mà phủ nhận.. Người nữ đó đã sống hết ngả truân chuyên, trôi cuốn theo giòng cuồng lưu vận nước, vô độ thảm thương hơn thân phận Thúy Kiều, khổ đau và tủi nhục trên cả Lara trong “Dr. Jivago”, vượt xa cơn khốn khó của Catherine Barkley trong “A Farawell To Arms”. Những nhân vật nữ đa truân của văn chương nhân loại. Người đàn bà tên Nga đã cho đi ở lứa tuổi thanh xuân đẹp đẽ đó, cả cuộc đời nàng vì lý tưởng thiêng liêng dành cho đất nước, thủy chung ôm giữ mối tình đầu câm lặng cùng niềm u oán… Để bốn chục năm sau, bàng hoàng sống lại nguyên tròn cảm giác bồi hồi xưa cũ, nửa đêm ngồi viết lá thư dài, gửi “Anh Duy dấu yêu” những lời nồng nàng tha thiết, bây giờ mới ngỏ… Để tim người tình năm xưa quặn thắt và đau buốt nhức, tay cầm tờ thư cũng run lên, như trước đây, bên trời xa mù tắp, Nga cũng run lên “còn hơn bị B-52 trải thảm”, khi đọc “Giòng Đời” trên giai phẩm Ngàn Sao.

Thiên tình sử đã được viết ra bằng những giòng chữ đầm đìa ngấn lệ, văn chương tới độ chân thành, cảm động, khiến hoe rưng người đọc.

Thêm vào đó, “Hồi Âm Giòng Đời” còn là một tác phẩm sâu sắc, tát thẳng vào mặt chế độ với những giòng chữ viết ra từ một người theo cách mạng, nói về thực chất của cái gọi là “nhà nước”, trên phương diện thông tin chỉ thuần mục đích tuyên truyền “nhai đi nhai lại một luận điệu cũ rích”, về tệ trạng tham nhũng hối mại “chỉ cần đút lót vài ba bao thuốc thơm, chiếc đồng hồ rẻ tiền.v.v… thì cái gì to như con voi cũng qua lọt”, và thú nhận lầm lỡ đi theo Việt cộng chỉ là do “định mệnh nghiệt ngã đã đẩy em thành một kẻ ruồng bỏ quê hương!”…Em tập kết vì ngỡ mình sẽ đến được một nơi như thiên đàng, chứ không phải vì lý tưởng hay vì bị huyền hoặc bởi cái chủ nghĩa hứa hẹn không còn có cảnh người bốc lột người….”

Đó là tâm trang não nề của “người đàn bà góa bụa mái tóc đã bắt đầu điểm sương ngồi viết thư cho người bạn tình xa cách nửa vòng trái đất..” tủi buồn ngậm giọt thương thân, nhớ lại mối tình thơ ngây không dám ngỏ và thổn thức hồi niệm cuộc chia ly định mệnh, khiến cho đời nàng giông bão “Nhiều đêm em đã khóc vì nỗi bơ vơ của mình nơi xứ lạ quê người. Em nhớ đến anh thật nhiều…” Nhớ đến bóng hình xưa thuở thanh xuân đèn sách học trò và giấc mơ lãng mạn “Có lần nào anh say xưa oanh kích, mà dưới ấy là chỗ đóng quân của em? Nếu chẳng may bị trúng đạn phòng không, anh nhảy dù xuống và em là người băng bó cho anh, thì không hiểu bọ mình phải xử trí ra sao trong tình huống ấy?”

“Hồi Âm Giòng Đời” nói lên đầy đủ cái thảm kịch của thế hệ chúng ta, của phần số đau thương bất hạnh dân tộc ta gánh chịu. Lý Tưởng trân trọng mời bạn đọc theo dõi và cảm xúc với từng giòng chữ phô diễn chân thành tâm trạng người viết, để hiểu tại sao cái khổ đau ray rứt đã khiến ông Đại Tá phi công khu trục Đặng Duy Lạc không gượng nổi, phải từ giã anh em, từ giã bạn bè để ra đi mang theo tình yêu thánh hóa sang bên kia thế giới…

 

VÀO TRUYỆN …

 

Anh Duy thân mến,

 

Em ngồi viết lá thư này cho anh khi cơn mưa vừa mới tạnh. Cơn giông miền nhiệt đới ào ạt, kéo dài độ chừng hai tiếng đồng hồ, nhưng cũng đã làm cho cái nóng oi bức của Sàigòn dịu bớt. Mưa đã dứt, chỉ còn những giọt nước nhỏ thỉnh thoảng tí tách rơi trên miếng tôn mỏng hứng nước bên hiên nhà. Nghe tiếng giọt nước gõ đều đặn, rồi nghe tiếng nhịp tim mình đập, em bỗng thấy hình như mình mang một tâm trạng bồi hồi. Ðặt bút viết là thư này cho anh, lòng em cũng cảm thấy bồi hồi như thủa ấy cầm tay anh lần đầu, mà không ngờ cũng là lần chào ly biệt.... Không biết rồi lá thư này có thể đến tay anh? Nếu may mà thư đến, đọc xong anh sẽ nghĩ gì? Thôi em cũng liều... Cầm bằng như gió mang đi.

Tuần trước em đến thăm chị Hạnh, người bạn làm việc cùng cơ quan với em trước đây. Chị ấy xin phục viên sớm, vì đồng lương nhà nước trả không đủ sống. Chưa kể là đôi ba tháng nhà nước không có tiền phát cho nhân viên. Chị Hạnh bây giờ làm nghề buôn chui sách báo nước ngoài. Ở chỗ này thì em phải giải thích thì anh mới rõ tại sao ngày nay nước mình lại có cái nghề lạ như vậy. Từ ngày các nước xã hội chủ nghĩa anh em ngưng viện trợ, nhà nước cần ngoại tệ nên họ đã mở cửa, khuyến khích người Việt ở nước ngoài về thăm quê hương. Tuy có lệnh kiểm soát gắt gao ở các cửa khẩu hải quan những món hàng quốc cấm như sách báo tuyên truyền của phe tư bản, nhưng tệ nạn tham nhũng tràn lan không có cách gì ngăn cản nổi. Vì thế, du khách chỉ cần đút lót vài ba bao thuốc thơm, chiếc đồng hồ rẻ tiền..v.v... thì cái gì to như con voi qua cũng lọt. Người dân ở quê nhà bây giờ không ai thèm đọc báo nhà nước, ngày nào ngày ấy tin tức đều nhai đi nhai lại một luận điệu cũ rích. Người ta còn khôi hài nói rằng chỉ có tin tức khí tượng là không sặc mùi tuyên truyền, còn hầu hết đều... cuội! Vì thế dân chúng mới lén lút thuê hoặc mua lại báo chí bằng Việt ngữ hay bằng ngoại ngữ xuất bản tại nước ngoài.

Gặp em, chị ấy vội kéo vào buồng trong nói nhỏ:

- Này Nga, tôi có món quà này, chắc Nga sẽ thích vô cùng.

Em chưa kịp hỏi chi ấy món quà gì, chị Hạnh đã dúi vào tay em một tờ báo. Chị nói:

 

- Dấu cho kỹ vào người đi! Về nhà, chờ đêm khuya thanh vắng rồi hãy đem ra đọc. Ðọc để xúc động vì "người ta" còn nhớ tới mình!

Nhìn trang bìa tờ báo có hình một nửa chiếc máy bay phản lực đậu trên phi đạo và tên tờ báo là Ngàn Sao, lại nghe chị Hạnh nói bóng gió xa xôi, em linh cảm một điều gì đó rất mơ hồ. Nửa năm trước, chú Lâm từ bên Mỹ đi công tác cho hãng về Việt Nam đến thăm em. Chú ấy nhắc đến anh, đến tình cảm anh vẫn âm thầm dành cho em. Giác quan thứ sáu xui em liên tưởng đến một điều gí đó (mơ hồ thôi) rằng anh, chàng Phi công Cộng Hòa lãng mạn, có thể đem chuyện tình hai đứa dệt thành văn? Cầm tờ báo trên tay, em run còn hơn bị B-52 trải thảm hay như hồi sơ tán phòng không ở Việt Bắc. Chị Hạnh trấn an:

 

- Làm gì mà run dữ vậy? Bề nào Nga cũng là cựu sĩ quan quân đội nhân dân, công an nào dám đụng đến?

 

Em run không phải là sợ công an khám xét thấy mình mang món hàng quốc cấm. Em run vì không hiểu điều dự đoán của mình có phải là sự thực. Em run vì liên tưởng đến người bạn năm xưa vẫn còn nhớ đến mình. Anh đừng cười em già rồi mà còn vớ vẩn.

 

Chị Hạnh là người bạn sát cánh với em vào thời kỳ chiến đấu dọc Trường Sơn. Chị ấy cũng là con nhà tiểu tư sản như mình, nên em thường nhỏ to tâm sự trong những lúc dừng quân. Em có kể cho chị ấy nghe về anh, người bạn học cùng trường thủa thiếu thời.

 

Về nhà, chờ đêm khuya thanh vắng, mọi người đều đã say giấc nồng, em len lén đem tờ báo ra chong đèn lên đọc. Em đọc từng trang, rồi em dừng lại ở bài viết mang tên tác giả Duy Lạc, "Chắc chắn là anh đây rồi?!" Em tự nhủ: Quả nhiên đúng như điều em dự đoán.

 

Thời gian trôi nhanh quá anh nhỉ? Thấm thoát đã bốn mươi năm rồi còn gì? Bao nhiêu tấn tuồng dâu bể diễn ra! Bao nhiêu nước chảy dưới cầu! Hai mái tóc xanh của đôi trẻ ngày nay đã bắt đầu điểm trắng.

 

Chiến tranh bùng nổ, anh từ Sàigòn về lánh nạn ở quê nhà. May mắn thay giặc chưa thể tràn về vùng đất của mình, nên chúng ta có một thời kỳ bình yên. Khí thế bừng bừng của phong trào giành độc lập xứ sở bốc cao khiến tất cả thanh niên hăm hở lên đường làm anh vệ quốc quân. Tuy bọn mình còn nhỏ mà trong trí óc non nớt cũng đã thấy lòng rộn ràng vui thích như đi trẩy hội ngày Xuân. Em còn nhớ đêm liên hoan, anh hát bài "Nhớ Chiến Khu". Lúc bấy giờ nghe giọng anh run run, em cứ tưởng anh vì cảm thương nỗi nhớ nhà của anh vệ quốc quân trong núi rừng thâm u; nào dè anh run ...vì ánh mắt ngưỡng mộ va say mê theo dõi của em. Thì ra nhãn lực của em cũng khá đấy anh Duy nhỉ?

 

Dạo ấy lần đầu tiên nghe anh trả bài thầy giáo, em mới để ý thấy cách phát âm của anh khác với những học trò con trai trong huyện. Chẳng hạn, "mờ mịt" thì anh phát âm thành "mờ mịch" hay "vui quá" thành "vui góa". Và còn nhiều chữ độc đáo nữa...

 

Mới đầu bọn học trò trong lớp, rồi về sau bọn học trò của cả trường thường nhại cách phát âm ấy để trêu ghẹo anh. Thoạt tiên em cũng cười hùa theo bọn chúng, nhưng thấy anh chẳng phản ứng gì, mà chỉ nhún vai cười khỉnh rất là... Sàigòn, tự nhiên em đâm ra thích cái giọng ấy mới kỳ chứ! Mỗi lần đến giờ học, em đều cầu mong thầy giáo gọi anh lên trả bài để em được nghe cái giọng ngồ ngộ ấy.

 

Anh còn nhớ lần đi cắm trại đầu tiên do nhà trường tổ chức trước vụ Hè 51 không? Lớp mình chia làm bốn toán mà anh thì ở toán A, còn em ở toán B. Khi đến nơi, ai nấy đều lo căng lều dựng trại của toán mình, trong lúc đó anh lại chạy sang loay hoay giúp em làm chuyện này chuyện kia. Cử chỉ lăng xăng của anh có vẻ vụng về, khiến cho em vừa buồn cười vừa cảm động. Vì thế, buổi tối họp lửa trại, em mới lén dúi vào tay anh củ khoai em vùi trong bếp lúc nấu cơm chiều. Em còn trêu:

 

- Trại sinh bên toán B ăn hết "thịch" (thịt) cá rồi, em chỉ còn củ khoai nóng này tặng anh dùng đỡ cho "dzui"!

 

Chẳng những anh không giận vì bị em nhái giọng, anh chìa tay ra cầm củ khoai một cách hồn nhiên, mà miệng còn ấp úng nói gì nghe không rõ, em bỗng cảm thấy thương anh chi lạ!

 

Dân trong làng kế cận khu cắm trại, tối đến xong việc đồng áng cũng ra tham dự trò chơi lửa trại của đám học sinh. Ánh lửa hồng chờn vờn nhảy múa ngọn thấp ngọn cao, nhịp nhàng lung linh với tiếng đàn guitar bập bùng của anh tạo nên cảnh tượng kỳ ảo rất liêu trai. Con Thủy, con gái ông Xã Tài; con Nhạn, con gái ông Lý Trân, ngồi bên em cứ huých cùi chỏ vào hông em từng chập, mỗi lần chúng nó trông thấy anh gật gà gật gù theo điệu nhạc trầm bổng.

 

Dường như lúc bấy giờ anh say sưa với âm thanh của từng nốt nhạc, không thèm biết gì đang xảy ra chung quanh. Khách quan nhận xét, cả huyện mình đâu có cậu học trò nào chơi đàn ngọt như anh? Chúng nó cũng khoái và để ý "người Sàigòn" có mái tóc chải bảy ba tango lắm đấy! Anh có biết rằng anh đã lọt vào mắt xanh của bọn học trò con gái tinh quái ấy không?

 

Em còn nhớ tính anh ít nói. Trong lúc mọi người ngồi huyên thuyên, thình thoảng anh chêm một câu pha trò hóm hỉnh mà nhiều khi người nghe không tinh ý, phải mất ba, bốn ngày sau mới hiểu. Cái tính "nghịch" ấy ngày nay anh vẫn không bỏ. Trong bài "Giòng Ðời", em vẫn đọc thấy thấp thoáng cái văn phong đó.

 

Anh cao lớn, nhưng không gầy như cây sậy và anh đâu có đen đúa xấu trai như anh tự chế diễu mình trong bài văn? Lại còn bày đặt tự chê mình học dốt!

 

Xong màn văn nghệ và đọc tin thời sự về những chiến thắng công đồn đả viện của bộ đội cụ Hồ cho dân chúng nghe, bọn học trò chạy xuống bờ biển nô đùa với sóng nước. Em nhớ đêm đó trăng lên muộn và trời trong xanh không một vẩn mây. Hình như đốm lửa trại cuối cùng tàn lụi rồi trăng mới lên. Khác với những học trò khác cùng lớp, anh không xuống bờ cát giỡn nước, giỡn trăng. Em thấy anh ngồi tựa lưng vào một cây dừa lả ngọn và đôi mắt đăm chiêu nhìn ra trùng khơi. Anh ngồi yên một cách thư thái, tự tại, đẹp như một pho tượng!

 

Em biết rồi, người đó đang mơ mộng vì người đó đang yêu?! Lúc bấy giờ những cơn sóng bạc đầu phản chiếu ánh trăng nhấp nhô vờn nhau xô vào bờ, có làm cho tim anh xao xuyến, hởi người nghệ sĩ với cây đàn?

 

Em là con gái, trời ban cho em cảm nhận bén nhạy hơn con trai. Kinh nghiệm đời trải qua, chắc bây giờ anh đã hiểu rõ điều đó. Hồi ấy, mới thoáng thấy cử chỉ ân cần và ánh mắt trìu mến của anh nhìn em trong lớp học, ngoài sân trường, em đã đọc được ý nghĩ thầm kín của anh. Nhưng em là con gái, đặc biệt vào thời buổi ấy, luân lý và bản tính rụt rè của phụ nữ đâu cho phép em có một cử chỉ gì gọi là biểu đồng tình, dù trong thâm tâm em cũng rất cảm mến anh. Cũng có những đêm nằm một mình vẩn vơ bên cửa sổ ngắm trăng, bỗng nhiên ngửi thấy mùi hoa cau bưởi từ đâu đưa lại, em chợt thèm có anh bên cạnh để... ngắm anh (!) Hoặc để luồn những ngón tay thon nhỏ của mình vào tóc người yêu. Ðó là cái rạo rực rất tự nhiên của người con gái ở tuổi dậy thì khi biết mình đang có một anh chàng đang ngấm nghé.

 

Em đã đọc đi đọc lại nhiều lần lá thư anh trao. Vì sự bất cẩn của em, con nhỏ Thủy - con gái ông Xã Tài - đọc trộm lá thư em dấu trong sách cho mượn, thế là nó đem đi mách lẻo với mọi người, gây ra sự hiểu lầm đáng tiếc khiến anh sinh lòng oán hận em. Nếu lá thư ấy bị một người bạn gái nào khác đọc thì chẳng đến nỗi nào. Ðằng này con nhỏ Thủy vốn thầm yêu trộm nhớ anh, nên khi nó vớ được lá thư là nó kháo ầm lên để anh phải thẹn thùng với đám bạn gái của em và hai bà chị họ. Nghĩ lại, em chẳng phiền trách gì nó. Âu cũng là tại sợi chỉ hồng không se duyên cuộc tình chúng mình!

 

Ngày anh cầm tay em lần đầu (và cũng là lần cuối), em đã khóc, đã hết lòng gạn hỏi tại sao anh bỏ học và cố tình lẩn tránh em. Anh cứ lầm lì im lặng. Không ngờ bữa đó anh đã quyết định xuống tàu trở lại chốn phồn hoa. Tuổi trẻ thường hay đặt tự ái quá cao! Anh đi biền biệt để lại cho em nỗi nhớ đoạn trường. Em thẩn thờ biếng nhác việc học hành và công việc trong nhà. Ba mẹ không hiểu chuyện cứ rầy la. Bỗng nhiên em cũng sinh lòng trách cứ anh. Anh đã từ phương xa lại, mình gặp gỡ nhau, anh gieo vào lòng em một vết thương, rồi anh lẳng lặng ra đi không một lời từ biệt. Bạn bè em một đôi đứa đem lòng thương hại, vài đứa trêu ghẹo em mang mối sầu tương tư. Em lại càng giận anh hơn.

 

Năm 1954, hiệp định Giơ-ne-vơ chia đôi đất nước. Một số người trong làng xã tập kết ra Bắc. Gia đình em vẫn ở lại vì thuộc thành phần địa chủ. Tổng Thống Diệm về nước, đẩy mạnh chiến dịch Tố Cộng. Gia đình em không bị ảnh hưởng gì, vì người ta biết thời ấy ai cũng chống Tây. Nhưng chỉ có một số cán bộ Tố Cộng của ông Diệm lợi dụng quyền thế, thấy em có nhan sắc nên họ gây nhiều khó dễ để cưỡng bách em trao thân gởi phận. Nếu em liều mình nhắm mắt đưa chân, chắc chắn em sẽ cũng được yên thân. Nhưng tính em ương ngạnh, không chấp nhận sự hà hiếp, em bèn tìm đường lên núi để rồi ngả về phía bên kia. Thân gái dậm trường, liều mình bỏ gia đình ra đi đến phương trời vô định, em nào muốn làm một cuộc phiêu lưu? Nhưng định mệnh nghiệt ngã đã đẩy em thành một kẻ ruồng bỏ quê hương!

 

Anh Duy yêu dấu,

 

Nhiều đêm em đã khóc, vì nỗi bơ vơ của mình nơi xứ lạ quê người. Em nhớ đến anh thật nhiều. Nhớ đến kỹ niệm của những đêm trăng ở làng quê mình, của những buổi chiều hai đứa rong chơi lang thang trên bờ ruộng lúa vừa mới gặt, của mùi hương ngai ngái từ gốc rạ thoảng đưa trong gió. Và em còn nhớ đến cái giọng Sàigòn ngồ ngộ của anh nữa!

 

Sự đãi ngộ ở miền Bắc không tốt đẹp như những gì mà "người ta" đã ngọt ngào dụ dỗ em. Cũng như những bộ mặt đàn ông nham nhở (xin lỗi anh) tìm đủ mọi cách chiếm đoạt em. Ở vào bước đường cùng, lần này em đành nhắm mắt đưa chân. Em kết hôn với một ông sĩ quan già hơn em mười lăm tuổi. Trong bài "Giòng Ðời" anh kể rằng em làm lẽ một viên tướng già là không đúng sự thực. Nhưng mà thôi, không sao! Làm vợ chính thức hay làm lẽ, số phận em vẫn hẩm hiu "bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi!"

 

Chiến tranh ngày càng lan rộng và khốc liệt. Phi cơ oanh tạc hầu như mỗi ngày. Ða số nhân dân miền Bắc đều mong mỏi được quân đội miền Nam giải phóng, vì họ hết chịu đựng nổi đói khổ và cuộc sống hắc ám, rình rập. Em là người miền Nam tập kết muộn. Tập kết vì tưởng mình sẽ đến một nơi như thiên đàng, chứ không phải vì lý tưởng hay bị huyễn hoặc bởi cái chủ nghĩa hứa hẹn không còn cảnh người bóc lột người! Em chỉ tha thiết một điều: Chiến tranh sớm chấm dứt, hòa bình mau trở lại để em được quay về xóm làng xưa. Em tình nguyện xung phong đi chiến trường B (tức là xuôi Nam ) với hy vọng nhìn lại Bố Mẹ già và đàn em dại. Em lên đường như một người tìm về nơi chôn nhau cắt rốn, chứ không phải là kẻ lên đường "làm nghĩa vụ quốc tế" như người ta cổ võ đề cao. Trở về đó, em lại nghe tin đồn phong phanh rằng anh đã trở thành người phi công khu trục của chính quyền Sàigòn. Chao ôi! có lần nào anh say sưa oanh kích mà dưới ấy là chỗ đóng quân của em? Nếu chẳng may bị trúng đạn phòng không, anh nhảy dù xuống và em là người băng bó cho anh, thì không hiểu bọn mình phải xử trí ra sao trong tình huống ấy? May mà điều ấy không bao giờ xảy ra để chúng ta khỏi bị ngỡ ngàng.

 

Có lần em nhặt được tờ truyền đơn kêu gọi chiêu hồi từ trên phi cơ thả xuống. Em vội dấu kỹ tờ truyền đơn vào lần túi áo trong để chờ dịp thuận tiện là trốn thoát, nhưng cơ hội không bao giờ đến với em cả!

 

Khi miền Nam được "giải phóng", em nghĩ rằng đây là cơ hội em có thể tìm gặp người bạn tình năm xưa. Em biết rằng gặp nhau thì đôi ta mỗi đứa ván đã đóng thuyền, không còn hy vọng gì chấp nối, nhưng ít nhất mình cũng còn được thấy nhau sau mấy mùa chinh chiến. Niềm hy vọng ấy vội tan biến khi em biết rằng anh đã ra đi nước ngoài. Tâm tình em xen lẫn hai nỗi buồn, vui: Buồn vì không gặp được anh và vui vì anh không phải rước cảnh tù đày. Anh còn nhớ Loan, em gái của em. Nó kết hôn với Cảnh, một người Thiếu tá trong quân đội Cộng Hòa. Chồng nó bị đưa đi "học tập cải tạo", rồi chết vì lao lực trong rừng thiêng nước độc và vì thiếu dinh dưỡng. Loan nhờ chồng em can thiệp cho Cảnh. Như anh biết đấy. Tuy chồng em là tướng Việt cộng mà cũng đành bó tay bất lực. Từ đó Loan không bao giờ nhìn mặt em nữa. Chị em cật ruột bỗng hóa thành kẻ thù. Nỗi khổ tâm ấy do ai gây ra, mà một mình em phải hứng chịu sự khinh khi của gia đình? Tại sao em phải chịu nhiều điều oan nghiệt thế hở anh Duy?

 

Năm kia, chú Lâm về Sàigòn, chú ấy kể rất nhiều chuyện về anh. Em vô cùng xúc động vì anh vẫn giữ được trong ký ức hình ảnh và tình cảm trân trọng đối với người bạn gái đầu đời. Vận nước điêu linh, thế hệ chúng mình chẳng may phải hứng chịu nhiều thua thiệt. Thật là vô lý khi hai kẻ yêu nhau trở nên vô tình quay mũi súng bắn vào nhau. Ước mong sao những lớp người thuộc thế hệ mình nhìn rõ chân lý để cùng nhau xây dựng lại xứ sở hoang tàn bởi một thứ chủ nghĩa ngoại lai phi nhân. Mình phải có bổn phận nói rõ cho con cháu nên lấy thương yêu, chứ không phải hận thù, bù đắp những lỗi lầm của người đi trước. Có như thế thì mới hàn gắn được những đổ vỡ lớn lao trong quá khứ.

 

Ðúng bốn mươi năm trước, dưới rặng dừa ở làng quê, anh e ấp trao em lá thư tỏ tình. Anh nao nức chờ đợi hồi âm. Em chưa kịp hồi âm thì không may xảy ra chuyện hiểu lầm. Bốn mươi năm sau, (nhờ đọc được bài văn của anh trên báo), từ phương trời này, một người đàn bà góa bụa và mái tóc đã bắt đầu điểm sương lại ngồi viết thư cho người bạn tình xa cách nửa vòng trái đất để kể lể chuyện đời. Xin cám ơn anh đã cho em một chút nắng trong buổi chiều tàn, "Một Chút Mặt Trời Trong Ly Nước Lạnh!" Ðời em truân chiên đã gặp nhiều bất hạnh, nhưng kể từ khi đọc những dòng tâm tư của anh trên trang báo, em cảm thấy được an ủi phần nào. Bây giờ thì em mới biết ở nơi cuối trời xa thẳm kia có một chàng trai Sàigòn thủa nào vẫn còn giữ trong tim hình ảnh và kỹ niệm đằm thắm của người yêu ban đầu.

 

Thư viết cho anh đã khá dài. Những giọt nước mưa trên mái nhà cũng đã thôi gõ đều đặn xuống tấm tôn. Ðêm đã xuống từ lâu. Cảnh vật yên lặng như tờ, nhưng dường như trong tiềm thức em vẫn nghe tiếng sóng biển rì rào và âm thanh xào xạc của những ngọn lá dừa cọ xát vào nhau. Biết bao giờ hai chúng ta có thể lại cùng nhau dạo chơi hóng gió chiều và nghe sáo diều trên đường làng quê cũ anh nhỉ? Ấy chết! Em lại lẩn thẩn mất rồi! Ðừng! Chúng mình không nên gặp lại nhau để anh còn giữ trong trí nhớ hình ảnh con bé Nga mười mấy tuổi, má lún đồng tiền và nụ cười răng khểnh.

 

Em xin dừng bút. Cầu chúc anh dồi dào sức khỏe và gia đình gặp nhiều sự may mắn, an khang, thịnh vượng. Và xin anh nhớ cho rằng ở nơi xứ sở nghèo khó này vẫn có một người luôn luôn thương nhớ anh.

 

Thân ái,

 

Em gái anh, Nga

 

Tái bút: Ðể tránh sự kiểm soát của nhà nước, em trao lá thư này cho một sĩ quan sắp sang Mỹ theo diện H.O. và nhờ ông ta gửi đến chú Lâm bằng đường bưu diện.