Những Sự Thật về cái chết của Hoàng Cơ Minh
- Hoàng Cơ Minh đã chết như thế nào ?
- Các tướng Thái khai
thác “dịch vụ kháng chiến” ra sao ?
- Ai chủ trương Khủng
Bố người làm báo ?
- Nhóm Nguyễn Đồng Sơn
và những mưu đồ mới.
Nguyễn Toàn
Trước khi nói đến cái chết của ông Hoàng Cơ
Minh, thiết tưởng cần phải lội ngược lại thời gian, khi “Mặt Trận” được thành
lập, và những hoạt động của nó, để từ đó đưa đến cái chết tăm tối của người
đứng đầu tổ chức từng được xảo thuật tuyên truyền của “Mặt trận” đưa lên cao
như một vị anh hùng dân tộc.
Từ Thu Tiền Ở Hải Ngoại, Đến “Chiến Khu Quốc
Nội”
Thật ra, vào năm 1982, khi hai ông Hoàng Cơ
Minh và Phạm Văn Liễu dựng ra “Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt
Nam” (MTQGTNGPVN), thì nhóm này chỉ đưa được có 8 (tám) người về Thái Lan.
Nhưng, nhờ biết cướp thời cơ lúc tinh thần người Việt lưu vong đang lên cao, và
nhất là nhờ những xảo thuật tuyên truyền lừa bịp như mấy phút phim video “Đông
Tiến” dàn cảnh ở Thái Lan, “Mặt Trận” đã đưa “uy tín” của “Chủ tịch Hoàng Cơ
Minh” và phe nhóm lên rất cao.
Trong khi “chiến khu quốc nội” chỉ có trên
phim video, thì tại hải ngoại, “Phong Trào Yểm Trợ Kháng Chiến” do ông Phạm
Ngọc Lũy chủ xướng tha hồ thu góp tiền bạc, các “cán bộ lãnh đạo Mặt Trận” trở
thành những “quan lớn phục quốc” và hách dịch. Đoàn viên “Mặt Trận” thì vênh
váo, làm như là sắp giải phóng được đất nước tới nơi và sắp đè đầu, cưỡi cổ
thiên hạ. Đây là giai đoạn cực thịnh của nhóm Minh-Liễu, vì đã thành công trong
việc đánh lừa được đa số người Việt tỵ nạn, khiến một số ít người phát giác
được trò lừa bịp của “Mặt Trận” có nói lên cũng không mấy ai tin, mà còn bị
chụp mũ là Việt cộng, hoặc bị khủng bố…
Năm 1983, ông Hoàng Cơ Minh từ “chiến khu quốc
nội” về Hoa Kỳ với chiếc khăn rằn quàng cổ để mở “Đại Hội Chính Nghĩa”, tuyên
bố là đã “thống hợp được 36 (ba mươi sáu) tổ chức kháng chiến gồm 10,000 (mười
ngàn) tay súng ở quốc nội”, nhưng sự thật “chiến khu” này chỉ là một mảnh rừng
ở Buntharit, thuộc tỉnh Uborn, được viên tướng Thái Sút-Sai, Tư lệnh đơn vị 309
Tình báo làm ngơ cho sử dụng với số tiền “trà nước” lúc đầu khoảng 2,000/ 3,000
đô la Mỹ, và phải đóng “hụi chết” hàng tháng từ một tới ba ngàn Mỹ kim,
chưa kể quà cáp biếu xén các bà tướng, bà tá “nước bạn”.
“Chiến khu” này, chính là nơi đã được nhóm
Minh-Liễu dùng để khai sinh “MTQGTNGPVN” vào ngày 8.3.1982, công bố “Cương lĩnh
chính trị” kêu gọi “người người nổi dậy, nhà nhà thành công chiến đấu chống lại
bạo quyền cộng sản”. Tuy trình diễn rình rang và hô hào đao to búa lớn như vậy,
nhưng thực ra như trên đã nói, cán bộ nòng cốt của “Mặt Trận” tại “chiến khu”
không quá 8 (tám) người (trong đó, có Hoàng Cơ Minh, Lê H., Nguyễn kim H.,
Nguyễn Trọng H. Lạc), còn các “kháng chiến quân” xuất hiện trong video hầu hết
là… thuê của Thái Lan!
Tàn Ác và Sắt Máu
Tuy số cán bộ của “Mặt Trận” tại “chiến khu”
đếm không đủ mười đầu ngón tay, nhưng Hoàng Cơ Minh đã phong tướng… không quân
cho tả hữu. Cựu Trung tá Nhảy dù Lê H., bí danh Đặng Quốc Hiền, được phong
“Tướng Tư lệnh Lực lượng Kháng chiến”, cựu Đại tá Dương Văn Tư (gia nhập “Mặt
Trận” từ trại tỵ nạn Thái Lan) được phong “Tướng Tư lệnh Chiến khu (ở Uborn),
ông cựu Trung úy Phòng 7 Bộ Tham Mưu Nguyễn Trọng H., bí danh Huy, được thăng
“Đại tá Tư lệnh phó Lực lượng Vũ trang. Huy có một Album hình ảnh “Lễ Tuyên Bố
Cương Lĩnh Mặt Trận” và sinh hoạt ở “chiến khu” đem vào các trại tỵ nạn để tuyên
truyền và tuyển mộ quân.
Trong thời gian 1982-1983, có hai người Việt
làm việc cho Tòa Đại Sứ Mỹ ở Bangkok là các ông V. và N., đã giúp nhóm Hoàng Cơ
Minh rất nhiều. Tuy nhiên, sau một thời gian sôi nổi lúc đầu, những người có
mặt tại Thái Lan đã thấy rõ hơn ai hết chân tướng của phe nhóm Hoàng Cơ Minh,
nên ai có thể xa lánh dược, thì xa lánh, ai bị “kẹt” thì bất bình và bất mãn.
Để trấn áp các sự phản kháng và ngăn chận “đào ngũ” Hoàng Cơ Minh đã cho thi
hành kỷ luật thép, và hơn thế nữa, đã dùng sự tàn ác sắt máu đối với những
người bất tuân phục. Không kể một số thanh niên vô danh theo “Mặt Trận” từ các
trại tỵ nạn, sau đó, đã bị thủ tiêu vì định bỏ “chiến khu”, còn những cái chết
bí ẩn của một số người được dư luận biết đến. Được nói tới nhiều nhất là cái
chết của Kỹ sư Ngô Chí (Trí) Dũng, một thanh niên trí thức đầy nhiệt huyết đã
bỏ đời sống êm ấm tiện nghi ở Nhật Bản đi theo “Mặt Trận”, người đóng góp rất
nhiều cho “Mặt Trận” và cũng là người đã nuôi dưỡng “Chủ tịch Hoàng Cơ Minh”
lúc còn bôn ba… ăn nhờ ở đậu tại Nhật. Ông Dũng đã tới sống tại “chiến khu” và
rồi không biết chuyện gì đã xẩy ra, mà sau đó, ông Dũng bị giết chết hết sức
bất ngờ, xác được vùi ở một khu rừng chồi tại Buntharit. Một người khác là bác
sĩ Nguyễn Hữu Nhiều, một cựu sĩ quan trợ y trong QLVNCH được “Mặt Trận” tuyển
mộ tại trại tỵ nạn, và thăng chức bác sĩ. Ông Nhiều đã bị “Mặt Trận” xử tử.
Chưa kể Đại tá Dương Văn Tư chết vì bệnh hoạn và thiếu dinh dưỡng, ít nhất cũng
có ba người bị thủ tiêu tại “chiến khu” trong một thời gian ngắn.
Cái chết của Hoàng Cơ Minh
Vào năm 1985, khi tại Hoa Kỳ, cánh Phạm Văn
Liễu, Trần Minh Công tách ra khỏi “Mặt Trận” và những mánh lới lừa bịp nhằm moi
tiền đồng bào được chính các thủ phạm vạch áo cho người xem lưng, thì cũng là
lúc tại Thái Lan, nhà cầm quyền nước này làm khó dễ, trục xuất toàn bộ nhóm
Hoàng Cơ Minh về Mỹ (trong đó có Hoàng Cơ Minh, Nguyễn Kim H. Nguyễn Trọng H…).
Thật ra, Hoàng Cơ Minh không mấy khi có mặt tại Thái Lan. Thỉnh thoảng Hoàng Cơ
Minh có qua Thái Lan, nhưng thường ở căn nhà tại khu Sảm-Sẻn, được gọi là “Hậu
trạm”, chứ ít khi ông ta xuất hiện tại “chiến khu”.
Khi xảy ra vụ các “chiến hữu” chia ra hai phe
bôi mặt đá nhau vì ăn chia không đồng đều và “Mặt Trận” đang trên đà tan rã thì
Hoàng Cơ Minh ở luôn tại San Jose, Bắc California, thỉnh thoảng tới họp với các
“xứ bộ” còn trung thành để làm ra vẻ “Mặt Trận” vẫn còn mạnh lắm. Ông ta mặc đồ
lớn, chứ không còn mặc áo bà ba, cuốn khăn rằn ở cổ nữa!
Trong khi đó, “chiến khu quốc nội” tại Thái
Lan lâm cảnh rắn không đầu, và bị “đuổi nhà” nên tự động tan rã, và còn một ít
người vì lý do này hay lý do khác phải sống chết với “Mặt Trận” thì di chuyển
lên vùng Udon.
Gần cuối năm 1987, sau khi tạm “củng cố hàng
ngũ” còn lại ở quốc ngoại, Hoàng Cơ Minh lại vận động đút lót để được trở lại
“quốc nội Thái Lan” nhưng vừa đặt chân đến đất Thái, ông ta đã nhận được lệnh
của viên tướng Svet, Tư lệnh vùng biên giới, bắt phải đổi căn cứ lên miền Bắc
Thái. Hoàng Cơ Minh không còn cách nào khác hơn là phải tuân lệnh viên tướng
Thái này, một lần nữa phải di chuyển căn cứ từ Udon lên Bắc Thái với dự định
lập căn cứ mới tại khu Bukdahan, sát biên giới Thái-Lào. Chính trong cuộc di
hành này, mà Hoàng Cơ Minh đã bị một số “kháng chiến quân” bắn chết. Bốn người
trong số “kháng chiến quân” từng bị Hoàng Cơ Minh bỏ rơi ở Thái Lan từ năm
1985, với sự xúi dục của tên Lưu Tuấn Hùng đã bất ngờ rút súng bắn sả vào
Hoàng Cơ Minh trong lúc đang đi dọc đường. Cần mở một dấu ngoặc ở đây để nói
thêm về Lưu Tuấn Hùng. Y là một tên gián điệp Việt cộng dưới quyền điều khiển
của Trung tá công an Việt Cộng “Việt Dũng” thuộc “Sở công an TP Hồ chí
Minh”, được gửi đi vượt biên với ý đồ trường kỳ mai phục hoạt động trong các
lực lượng chống cộng ở hải ngoại. Năm 1983, Lưu Tuấn Hùng được cựu Trung tá
Nguyễn văn H. người từ trại tỵ nạn Sikiew ra làm việc cho cơ quan tình báo Hoa
Kỳ ở Aranya Prathet đưa ra khỏi trại để điều tra và định dùng y xâm nhập Việt
Nam, nhưng rồi kế hoạch không được thực hiện. Hùng được trả về trại Sikiew.
(Ông NVH hiện cư ngụ ở Virginia. Vài tháng sau, người ta thấy Nguyễn Kim H. và
Nguyễn Trọng H. đến trại tiếp xúc với Lưu Tuấn Hùng và kết nạp y làm “Đại diện
Mặt Trận” tại Sikiew. Hắn đã mua chuộc được sự tín nhiệm của Hoàng Cơ Minh và
được ông này sử dụng làm “tùy viên”. Chính Lưu Tuấn Hùng đã xúi dục
bốn người khác giết chết Hoàng Cơ Minh để đoạt hai ký lô vàng mà ông này mang
theo định để đút lót các viên chức Thái trong việc lập lại “chiến khu” mới.
Sau khi Hoàng Cơ Minh “chết”, nhóm người đi
theo ông ta (độ 60 người) sợ bị Thái Lan bắt trừng trị, nên không còn con đường
nào khác hơn là tạm thời vượt sông Mekong kéo nhau sang Nam Lào, không may lọt
vào ổ phục kích của Lào Cộng, bị sát hại một số, còn một số bị bắt làm tù binh
Việt Nam, trong số này có cả Lưu Tuấn Hùng. Bởi vậy, người biết chuyện không hề
ngạc nhiên khi được tin “Tòa án nhân dân TP Hồ chí Minh” chỉ xử Lưu Tuấn
Hùng tù treo! Một chế độ cộng sản sắt máu không bao giờ xử án treo kẻ đã vượt
biên trốn ra khỏi nước, gia nhập lực lượng kháng chiến và trở về chống phá
chúng bằng vũ khí. Trừ khi kẻ ấy là người của chúng cài vào. Chi tiết về cái
chết của Hoàng Cơ Minh đã được một số sĩ quan cao cấp Thái, trong đó, có Đại tá
Thamasak thuộc Lực Lượng Đặc Nhiệm 80 ở vùng biên giới Prachinburi, xác
nhận với kẻ viết bài này.
Nhóm Nguyễn Đồng Sơn và những mưu đồ mới:
Sau khi Hoàng Cơ Minh chết, MTQGTHGPVN không
dám công bố tin tức này, vì sợ “Mặt Trận” tan rã và hơn nữa sợ nội bộ sẽ xâu xé
nhau để giành giựt tiền bạc vì nhờ số tiền bịp bợm quyên góp được của đồng bào
khắp nơi trong mấy năm, “Mặt Trận” đã sử dụng để kinh tài dưới nhiều hình thức
như:
Hệ thống Phở Hòa, hệ thống Phở Bằng, hệ thống
tàu đánh cá, hệ thống xuất nhập cảng hàng Á châu (nhất là thực phẩm), tiệm
bida, mua nhà cho thuê… sau nhiều năm đã sinh lợi rất nhiều.
Vào tháng 5.1988 vừa qua, Nguyễn K.H., bí danh
Nguyễn Kim, “Tổng vụ trưởng Tổng vụ Hải Ngoại MTQGTNGPVN” đã cùng N.X.N, bí
danh Nguyễn Đồng Sơn, trở lại Thái Lan (nhờ móc nối với một sĩ quan cấp tướng
của Thái, đút lót tiền nhiều để xin được đỡ đầu) để vận động lập lại “chiến khu
quốc nội mới” và sẽ tiếp tục xin phép vào các trại biên giới (các trại đang bị
Thái chèn ép bắt giam và đòi trả về Việt Nam) để tuyển mộ người (những người
trong các trại này đang sống trong tình trạng tuyệt vọng, dễ bị quyến dụ đi theo).
Với sự đút lót và vận động của Sơn-Kim, viên
sĩ quan cấp tướng của Thái Lan đang định thúc ép nhóm “kháng chiến” của Thái
Quang Trung phải sáp nhập với nhóm của Sơn-Kim để thành lập lại trại Bukdahan.
Sau khi đã có trại mới, có một ít quân, họ sẽ xúi dục những người này bịa ra
câu chuyện chiến đấu ác liệt với cộng sản và nhân đó, sẽ công bố cái chết của
Hoàng Cơ Minh. Họ cũng đã chuẩn bị đưa phó Đề Đốc Hải quân Đinh M.H. lên làm
“Chủ tịch Mặt Trận.
Tông tích Nguyễn Đồng Sơn không còn lạ gì đối
với các tổ chức chống cộng ở hải ngoại, cũng như với cơ quan an ninh Thái Lan.
Y là cháu ruột của Nguyễn Xuân Cúc, bí danh Mười Cúc, tức Nguyễn Văn
Linh, đang là chúa trùm đảng cộng sản Việt Nam.
Trước 30.4.1975, Nguyễn Đồng Sơn cùng cánh với
Nguyễn văn Hảo. Sau khi cộng sản chiếm đoạt miền Nam, Nguyễn Đồng Sơn cũng đã
cùng Hảo giúp cho Việt cộng tiếp thu của cải và “quản lý” kinh tế miền Nam, sau
đó, cả hai được Việt cộng cho rời Việt Nam sang Pháp theo đường chính thức. Năm
1983, Nguyễn Đồng sơn đã sang Hoa Kỳ tìm cách xâm nhập “Mặt Trận” và mua được
lòng tin cậy của mấy anh em Hoàng Cơ Minh.
Nhóm Thái Quang Trung (con của cụ Thái Văn
Kiểm) tuy có nhận sự trợ giúp của Tầu Cộng, nhưng các “kháng chiến quân” sống
tại căn cứ Bukdahan cũng rất thiếu thốn cực khổ, và không có tiền mặt để đút
lót cho tướng, tá Thái Lan, nên có thể phải nhập với “Mặt Trận” của Sơn-Kim để
có thêm phương tiện và nhân sự hầu làm vừa lòng các tướng tá Thái Lan, để được
yên, bằng cách canh chừng biên giới và xâm nhập lãnh thổ Đông Dương thâu thập
tin tức tình báo cho Thái. Nếu dự định này thành tựu thì sau Hoàng Cơ Minh,
“Mặt Trận” của Kim-Sơn sẽ trình diễn một màn lừa bịp thứ hai.
Tiếp tục Khủng bố
Từ ngày “Mặt Trận” ra đời đã xảy ra nhiều vụ
Khủng Bố nhắm vào các phần tử Quốc Gia, đặc biệt là những người cầm bút, trong
giới người Việt lưu vong tại Mỹ. Từ đe dọa, đến ám sát, đốt nhà… Những người bị
Khủng bố đều có chung một “tội” là không chịu hùa theo đồng lõa với những trò
lừa bịp của “Mặt Trận”, nên dù không tìm ra thủ phạm, dư luận vẫn biết ai đã
chủ mưu những vụ này.
Một hôm vào trung tuần tháng 5.1988, nhân dịp
Sơn và Kim đến Bangkok, nhờ tình cờ nghe được câu chuyện trao đổi giữa hai đoàn
viên “Mặt Trận”, kẻ viết bài này càng tin thêm là dư luận đã không sai lầm.
Hôm ấy, kẻ viết bài này đang ngồi trong một
Snack bar ở đường Sukhumvit, Bangkok, một nơi dành cho người ngoại quốc du hí,
thì gặp hai người Á châu có đeo huy hiệu “Mặt Trận” trên ve áo vest. Người viết
tảng lờ như không biết họ là người Việt Nam, ngồi tán tiếng Thái với cô
cashier, trong khi vẫn lắng nghe và để ý dò xét hai người này. Một trong hai
người dè dặt đưa mắt nhìn người viết rồi nói gì đó với bạn đồng hành. Sau đó,
một người giả bộ cầm điếu thuốc lá sang hỏi người viết xin mồi lửa bằng tiếng
Việt. Người viết cũng phải đóng kịch bằng cách ngẩn tò te như không hiểu hắn
nói gì và hỏi lại bằng một tràng tiếng Thái:
- Tôi không hiểu ông nói gì? Tôi là người
Thái. Bộ ông là người Nhật hả? Tôi không biết tiếng Nhật.
Y cười, nói với tôi bằng tiếng Anh:
- Ồ xin lỗi ông, tôi nghĩ ông là người Nhật
như chúng tôi.
Từ đó, hai người không e ngại tôi nữa. Họ thản
nhiên nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt nho nhỏ. Trong bar, ngoại trừ tôi và
hai người đó là Á châu cùng với cô cashier duyên dáng người Thái, còn khách toàn
là Tây phương; vì vậy, hai người này không phải e dè gì cả. Nhưng họ không biết
một điều tối hệ trọng là ở Bangkok có rất nhiều gián điệp của nhiều quốc gia
Tây phương và của cả cộng sản nữa, và rất nhiều người biết tiếng Việt, nghe,
viết, nói cả tiếng Việt rất giỏi. Có nhiều người nếu không gặp mặt, nhìn họ nói
mà chỉ nghe qua vách thì sẽ nghĩ là hai người Việt đang nói chuyện với nhau.
Sau khi nói những chuyện tầm phào, bá vơ,
chuyện chơi bời du hí ở các động sang trọng của thủ đô Bangkok, nơi rất nổi
tiếng về các món ăn chơi ở vùng Đông Nam Á, hai người vừa uống bia Singha (loại
bia đen của Thái rất nặng), vừa trò chuyện. Một người hỏi:
- Tại sao không làm luôn thằng Nguyễn Thanh
Hoàng của tờ Văn Nghệ Tiền Phong cho rồi?
- Tại sao phải làm thằng Nguyễn Thanh Hoàng?
- Tên này liên tiếp chửi bới, bôi nhọ và lật
tẩy Mặt Trận. Nếu không “dứt” thì sẽ tai hại rất nhiều, vì y nắm được rất nhiều
tài liệu về hoạt động của Mặt Trận.
- Vậy sao mình không dứt bọn nó cho rồi.
- Bây giờ chưa được. Vì bứt dây động rừng ông
biết không? Biết đâu bọn nó đã nhờ cảnh sát bảo vệ, mình cựa quậy bây giờ là
nát xương…
Kháng Chiến Phục Quốc Hay Giữ Dưa?
Như trên đã trình bày, chính sách Thái Lan từ
trước tới nay đối với các tổ chức kháng chiến chống cộng sản Việt Nam, là mở
cửa cho bất cứ người nào có khả năng về nhân sự, tài chánh, và tổ chức để gây
dựng một “chiến khu” ở vùng biên giới Thái-Miên hoặc Thái-Lào. Áp dụng chính
sách này, Thái Lan có hai điều lợi: Thứ nhất, là họ có một đơn vị biên phòng
ngăn cản Việt cộng mà không phải trả lương. Thứ hai, là họ có thể sử dụng những
lực lượng kháng chiến Việt-Miên-Lào để trả giá với Việt cộng. Nếu Việt cộng tấn
công mạnh sang đất Thái, họ sẽ có cớ để mặc cả bằng cách dọa dẫm sẽ yểm trợ các
lực lượng kháng chiến của cả ba nước Đông Dương mạnh hơn… Dù sao thì người Thái
vẫn có lợi, đó là chưa kể đến cái lợi về tài chánh do lực lượng có căn cứ ở
biên giới Thái phải yểm trợ cho kháng chiến của mình qua tay của người Thái.
Kháng chiến đã trở thành một dịch vụ sinh lợi cho các vị tướng lãnh Thái, Tư
lệnh các đơn vị được phép yểm trợ cho từng tổ chức kháng chiến. Thí dụ: đơn vị
309 tình Báo Biên Giới trực thuộc Bộ tư Lệnh quân Đội Hoàng gia Thái Lan đỡ đầu
cho “Mặt Trận” của Hoàng Cơ Minh. Họ đã che chở cho nhóm Hoàng Cơ Minh và trực
tiếp chỉ huy những người lãnh đạo lực lượng Hoàng Cơ Minh. Tư lệnh của đơn vị
309 Tình Báo là tướng Sút-Sai, một người đã được hưởng khá nhiều tiền của nhóm
Hoàng Cơ Minh qua trương mục ở Ngân Hàng Quân Đội. Ngoài số tiền “thuê” mảnh
đất rừng ở Buntharit, tỉnh Uborn, phải đóng lần đầu cho vị tướng này (khoảng từ
20,000 đến 30,000 dollas); hàng tháng “Mặt Trận” lại phải đóng “hụi chết” cho
các vị tướng Thái, khi thì 1000 đô la, khi 2-3000 vô kể. Ngoài ra còn phải quà
cáp biếu xén bà tướng, và các vị Đại tá, Trung tá… Đơn vị 315 Tình Báo Biên
Giới Thái là cha đỡ đầu cho nhóm kháng chiến của ông Lê Quốc Túy.
Những đơn vị kháng chiến trở thành những tiền
đồn cho Thái Lan và tùy theo các đơn vị Thái đỡ đầu, các lực lượng kháng chiến
Việt Nam còn phải làm công tác tình báo, trinh sát vào nội địa Lào, Miên để thu
thập tin tức tình báo. Vì thế, khi nhìn hình ảnh các kháng chiến quân người
Việt Nam, người ta thấy mặc quân phục Thái, đội mũ của lực lượng biên phòng
Thái, nhiều người đã tưởng rằng đây là đơn vị của Thái Lan, và không ai nghĩ
rằng đó là những người bị giới hạn cư ngụ trong những vùng đèo heo hút gió,
không có quyền đi ra khỏi khu vực trú đóng. Thỉnh thoảng mới có một, hai người
được người Thái chở vào các thị xã để mua bán, hoặc liên lạc với “hậu trạm” đặt
tại Bangkok.
Lực lượng kháng chiến nào cũng có “hậu trạm”
đặt tại Bangkok. Khi thì đặt tại nhà một vị tướng Thái, có số điện thoại để
liên lạc viễn liên về Hoa Kỳ và các “hậu trạm' này đều thuê hộp thư ở bưu điện
để liên lạc với các tổ chức yểm trợ tại Hoa Kỳ hoặc các nước khác.
Cũng có khi thì “hậu trạm” được các sĩ quan
Thái của đơn vị đỡ đầu thuê cho ở một căn nhà bên ngoài thuộc khu an toàn, và
thường là nhà của các sĩ quan cao cấp Thái để bảo đảm an toàn; tất nhiên cũng
có đầy đủ tiện nghi và phương tiện để liên lạc đi các nơi. Trung bình giá một
căn cứ (là một cánh rừng thuộc các tỉnh Đông Bắc Thái Lan giáp ranh giới Miên,
Lào), các lực lượng kháng chiến Việt Nam trả cho các vị tướng Thái vào khoảng
20,000 đến 30,000 Mỹ kim… mỗi tháng, lại phải đóng tiền “thuê rừng” cho vị
tướng vào khoảng 2,000 đến 3,000 dollars. Số tiền này hoàn toàn vào túi riêng
của vị tướng. Khi vui thì họ cho ở, phật ý thì họ đuổi.
Trên thực tế, chính quyền Thái chưa bao giờ
chính thức yểm trợ các tổ chức kháng chiến Việt Nam, các nhân vật lãnh đạo các
tổ chức kháng chiến chỉ được sự che chở ngầm của quân đội Thái và các tướng chỉ
huy đơn vị đỡ đầu. Vì vậy, tình trạng của các đơn vị kháng chiến rất mong manh,
nhất là anh em từ các trại tỵ nạn nhập vào. Họ bị sống bơ vơ trong các căn nhà
lá nằm cheo leo trong những rừng núi hoang vu mà tình trạng tiện nghi rất là
thiếu thốn, sinh hoạt hàng ngày cũng vô cùng eo hẹp. Đối với một số những cán
bộ lãnh đạo đã có quốc tịch ở các quốc gia tạm dung như Pháp, Úc… thì tình
trạng khá hơn, vì khi ông tướng Thái không bằng lòng vì một lý do nào đó (như
nộp tiền hàng tháng trễ), thì họ chỉ trục xuất các cán bộ lãnh đạo này ra khỏi
nước Thái; còn những người ở các trại tỵ nạn ra thì đi cũng không xong, mà ở
cũng không chẳng được, tình trạng này thật là vô cùng bi đát. Người nào liều
lĩnh trốn đi một cách bất hợp pháp, nếu người Thái bắt được sẽ bị đánh đập dã
man, nếu không thì lọt vào tay cộng sản. Đằng nào cũng… chết!!!
Mấy năm nay, các tổ chức kháng chiến có căn cứ
ở Thái Lan cứ quanh quẩn dậm chân ở biên giới Đông Dương, vừa nuôi béo các ông
tướng, bà tướng Thái Lan bằng những đồng tiền thu góp của đồng bào ta ở hải
ngoại, vừa đóng vai trò “giữ dưa” canh đất không lương cho “nước bạn”.
Đây là chiếc thùng không đáy sẽ khiến cho chúng
ta lao tâm khổ trí, hao tài, tổn sức vì nó. Nhưng nếu bỏ đi thì cũng không đành
lòng, vì còn đâu cơ hội mong manh giải phóng quê hương? Và niềm tin mù mờ kia
sẽ lụi tàn theo năm tháng và quên lãng với thời gian; rồi những cám dỗ xa hoa
của đời sống tiện nghi ở nước tạm dung sẽ làm chúng ta không còn thiết tha với
chuyện đấu tranh gian khổ. Một khi ngọn lửa đấu tranh đã thực sự lụi tàn, chỉ
còn là những tro than lạnh lẽo, thì làm sao chúng ta có thể khơi lại cho bùng
cháy dữ dội để thiêu đốt bọn quỷ dữ cộng sản Việt Nam.
Tệ hơn nữa, có những nhóm người bất lương với
các ý đồ đen tối, đã lợi dụng những “chiến khu” ở Thái Lan, để lừa bịp đồng
bào, vơ vét tiền bạc của những người dễ tin - Khủng Bố những ai dám nói thật,
biến kháng chiến thành trò hề, và đẩy lùi giấc mơ phục quốc ngày một thêm xa!!!
Nguyễn Toàn
Bài này đã đăng trên
Văn Nghệ Tiền Phong trang 25 26-27 và 88-89 số 303, từ ngày 1 đến 15 tháng 9 năm 1988.