Search This Blog

Saturday, June 18, 2022

KHÔNG CÒN LÀ MỐI NGUY CƠ - BẰNG PHONG ĐẶNG VĂN ÂU (bài thứ ba)

 

 https://khongquanc130.blogspot.com/2022/06/khong-con-la-moi-nguy-co-bang-phong-ang.html

Bài Thứ Ba

KHÔNG CÒN LÀ MỐI NGUY CƠ.

Bằng Phong Đặng văn Âu

Lời mở đầu : Nhận thấy Họa Diệt Chủng nòi giống Việt Nam không còn là nguy cơ, mà nó đang trên đà hiện thực, người viết xin dẫn chứng những sự kiện để giải thích tại sao mình quan niệm như thế. Người viết dành quyền phản biện cho quý vị thức giả. Bài viết sẽ thực hiện nhiều kỳ, kính mong quý độc giả quan tâm vui lòng kiên nhẫn theo dõi.

____________________________________________________________

Tôi từng thưa với độc giả nhiều lần rằng tôi không phải là nhà văn, vì tự biết mình không có văn tài, nên không dám mang sứ mệnh “tải đạo”. Cũng không phải là nhà viết sử, tôi chỉ là người có cơ duyên “lạc đường vào lịch sử”, vì đã đích thân tham dự vào cuộc chiến chống Con Ma Cộng Sản, thì viết lên suy nghĩ của mình để giải thích vì sao nòi giống Việt Nam anh hùng mà phải mang nỗi ô nhục này. Tôi công khai nêu lên ý nghĩ để biết đâu có vị cao minh nào đó có lời giải thích tình trạng xuống cấp của dân tộc một cách thuyết phục hơn.

Do sự xung khắc gia đình, Chúa Nguyễn Hoàng nhờ bà chị của mình – vợ Chúa Trịnh Kiểm – xin cho mình đi về Miền Nam khai hoang lập ấp. Nếu gia đình êm thấm, các bậc tiền bối không phạm tội với Thiên đình vì tiêu diệt nòi giống Chàm, thì dân Việt ta không bị quả báo như ngày nay. Đây không phải là lời oán trách tiền nhân. Đây chỉ là sự suy nghiệm của hàng hậu bối đi tìm căn nguyên vì sao một dân tộc thông minh, anh hùng mà trí óc không chịu lớn.

Đất Thuận Hóa là nơi hậu duệ của Chúa Nguyễn Hoàng – Nguyễn Phúc Ánh – chọn Phú Xuân để lập Đế đô Nhà Nguyễn và mang Đế hiệu Gia Long. Theo lời dạy của Thầy Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, thì “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”. Tại sao chỉ mới 143 năm tính từ năm 1802 là năm Chúa Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi đến năm 1945 vua Bảo Đại thoái vị, mà Nhà Nguyễn mất ngôi vào tay một tên gian hùng, cùng hung cực ác Hồ Chí Minh? Tại sao con cháu Nhà Nguyễn không thể dung thân vạn đại? Tại sao chỉ 143 năm là mất ngai vàng và con cháu phải mang nỗi nhục ăn nhờ ở đậu nơi đồng đất nước người? Có phải“Đời cha ăn mặn, đời con khát nước” là hậu quả tất yếu, đúng không?

Năm 1627, do xung đột dòng họ, cuộc nội chiến xảy ra chia đôi đất nước tại sông Gianh.

Năm 1954, nước Việt Nam lần này bị Quốc tế chia đôi tại sông Bến Hải, vĩ tuyến 17. Huế không còn là Kinh đô của Nhà Nguyễn, mà nước Việt Nam bị chia làm hai thủ phủ: Hà Nội và Sài Gòn. Thủ phủ Hà Nội – chốn ngàn năm văn vật – thuộc về bọn quỷ sứ ma vương do tên đại ma đầu Hồ Chí Minh cai trị, biến toàn xã hội thành Trại Súc Vật đói rách; còn thủ phủ Sài Gòn từ một bãi rác được nhà ái quốc Ngô Đình Diệm biến thành Hòn Ngọc Viễn Đông, nhân dân được sống tương đối tự do và no cơm ấm áo. Miền Nam có cần được giải phóng hay không? Tại sao có những đứa bằng cấp đầy mình mà chạy theo cái chiêu bài “giải phóng” ngu xuẩn đó? Rõ ràng lời nguyền rủa của những oan hồn đã tác động lên trí tuệ Việt Nam, đúng không?

Lẽ ra Miền Nam trù phú, tự do, hùng mạnh được cường quốc số 1 thế giới – Hoa Kỳ – yểm trợ mọi mặt, thừa sức giải phóng nhân dân Miền Bắc. Nhưng tại sao “một nền văn minh lại bị một chế độ man rợ đánh bại?”. Tôi thấy chỉ có cách đem Luật Nhân Quả ra để mà luận giải cái lẽ “vô thường” như những bài viết trước tôi đã trình bày. Không một ai chính danh lên tiếng phản bác một cách nghiêm túc những luận điểm của tôi. Điều đó chứng tỏ lập luận của tôi là hữu lý, chứ còn gì nữa?

Sau Đệ Nhị Thế Chiến, có ba Quốc gia bị chia đôi. một nửa thuộc phe Cộng sản, một nửa theo phe Tự do. Đó là Đức Quốc (Germany), Triều Tiên (Korea) và Việt Nam. Nước Đức được thống nhất trong tự do, thịnh vượng nhờ Liên Xô sụp đổ. Triều Tiên nhờ nhà độc tài Phác-Chính-Hy mà vẫn nguyên trạng chia cắt, chưa thống nhất được, nhưng Nam Hàn (ROK) trở thành Quốc Gia giàu mạnh, cạnh tranh kinh tế với Nhật. Trong khi ở Miền Nam Việt Nam, Tổng thống Ngô Đình Diệm làm cho bãi rác trở thành Hòn Ngọc Viễn Đông, bị quy tội đàn áp Phật giáo và đàn áp đối lập, giúp cho Hồ Chí Minh và bè lũ thống nhất đất nước. Thống Nhất mà “cái cột đèn biết đi, cũng bỏ nước ra đi”?

Tại sao văn hào Nhất Linh không thấy trong Nội các Chính phủ Ngô Đình Diệm đa số Bộ trưởng là Phật giáo? Tại sao văn hào Nhất Linh không thấy đa số Tướng lãnh trong Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa là Phật giáo? Văn hào Nhất Linh ca ngợi cái chết vì Đạo Pháp của Ngài Quảng Đức là đúng hay sai? Nếu tôi là con cháu của văn hào Nhất Linh, chắc chắn tôi đã đứng ra xin lỗi đồng bào Việt Nam ngay! Nhà cách mạng Văn Hóa Nhất Linh cũng bị quỷ ám?

Thử bàn láo chuyện thiên cơ một chút chơi. Có mất gì?

Nguyễn Huệ tên thật là Hồ Thơm, vốn dòng dõi họ Hồ, vào Bình Định lập nghiệp, đổi sang họ Nguyễn. Nguyễn Huệ đánh tan quân Xiêm La (Thái Lan) ở trong Nam do Chúa Nguyễn phúc Ánh cầu viện sang giúp. Nguyễn Huệ đánh bại quân Mãn Thanh ở ngoài Bắc do vua Lê Chiêu Thống cầu viện sang giúp. Nguyễn Huệ đánh hai kẻ thù do chính người Việt Nam rước voi về giày mồ, thống nhất đất nước, lên ngôi vua, lấy hiệu là Quang Trung Hoàng Đế. Nếu nói cho chính xác triều đại Nhà Tây Sơn đúng là Nhà Hồ. Chúa Nguyễn Phúc Ánh thừa dịp Hoàng Đế Quang Trung mất sớm, Quang Toản còn nhỏ, nên lật đổ Nhà Tây Sơn (Nhà Hồ), lập lên Nhà Nguyễn. Các sử gia dưới triều Nhà Nguyễn viết công lao thống nhất đất nước do Chúa Nguyễn Phúc Ánh là không đúng sự thật. Chính vua Quang Trung Hồ Thơm mới là người có công thống nhất.

Hồ Chí Minh vốn họ Nguyễn, tên thật là Nguyễn Sinh Cung, con ông Nguyễn Sinh Sắc. Nguyễn Sinh Cung đi làm bồi tàu thủy cho Thực dân Pháp là để sinh nhai, chứ không phải là nhà ái quốc đi tìm đường cứu nước. Bằng cớ là Nguyễn Sinh Cung làm đơn xin vào học trường Trường Thuộc Địa của Thực dân Pháp để phục vụ Thực dân Pháp. Nhưng vì Trường Thuộc Địa của Pháp không nhận, thì Hồ Chí Minh mới gia nhập đảng Cộng sản để bán nước Việt Nam cho Tàu. Đó là sự thật lịch sử. Người viết không bịa chuyện.

Chúa Nguyễn Phúc Ánh cướp ngôi Nhà Hồ (Nhà Tây Sơn) của Hoàng Đế Quang Trung. Hồ Chí Minh cướp lại ngôi Nhà Nguyễn (Vua Nguyễn văn Thiệu phải bỏ chạy).

Huế là nơi vua Gia Long đặt làm kinh đô, là nơi vua Minh Mạng ra lệnh cho quan chức dưới quyền hàng tháng phải nộp đầu người đầu dân Chàm để lãnh thưởng. Năm 1963, Huế là sào huyệt của bọn quỷ sứ dùng bọn Việt Cộng giả Sư để phát động cuộc “tranh đấu vì Đạo pháp” để lật đổ nền Cộng Hòa của Miền Nam. Năm Mậu Thân 1968, người dân vô tội của Thành phố Huế bị Việt Cộng chôn sống nhiều hơn tất cả các thành phố khác.

Bạn đọc có thấy sự đời vay trả, trả vay đã xảy ra trong dòng sinh mệnh dân tộc Việt Nam chưa?

Ông Cố vấn Ngô Đình Nhu viết cuốn Chính Đề Việt Nam đã tiên đoán, nếu nền Cộng Hòa của Việt Nam sụp đổ, chừng 9 hoặc 10 năm sau thì toàn thể đất nước Việt Nam rơi vào tay cộng sản Hà Nội và trở thành một phiên thuộc của Trung Cộng. Tại sao ông Ngô Đình Nhu đoán biết trước được điều đó? Tại vì ông Nhu là người thông minh, sáng suốt, ông nhìn thấy trong số các Tướng lãnh, trong số các nhà hoạt động chính trị, không có một ai có tài, có lòng yêu nước để lãnh đạo toàn dân đoàn kết chống lại âm mưu bán nước của Hồ Chí Minh. Nạn Sứ Quân sẽ xảy ra vì ông Nhu thấy được tất cả đều tham chức, tham quyền, chứ không có người thực tâm yêu nước, dũng cảm để lái con thuyền Việt Nam giữa phong ba, bão táp (họa cộng sản diệt chủng).

Quả nhiên, sự thể đã xảy ra giống như ông Ngô Đình Nhu đã tiên đoán.

Cái gọi là Cuộc Cách Mạng ngày 1 tháng 11 năm 1963 không phải là Cách Mạng để lật đổ một Chính quyền thối nát, nhằm xây dựng một Chính quyền lành mạnh hơn, dân chủ hơn, an ninh hơn. Đó là một sự vu khống lếu láo của bọn Việt Cộng nằm vùng trong Phật Giáo ở Huế để cướp Chính quyền hợp pháp nhằm dâng Miền Nam cho cộng sản Tàu. Bọn cầm quyền Cộng sản Hà Nội đều là những tên tay sai đắc lực của Trung Cộng. Nếu cái gọi là Cách Mạng Tháng 11 đúng nghĩa, thì tình hình chính trị Miền Nam phải tốt đẹp hơn, xã hội Miền Nam phải vững chãi hơn. Nếu bạn đọc còn có trí nhớ, sau cái gọi là Cách Mạng Tháng 11, Tướng Dương văn Minh – người đứng đầu – ra lệnh phá bỏ Quốc sách Ấp Chiến Lược và cho phép các tiệm Nhảy Đầm (dancing) hoạt động trở lại, vui chơi thâu đêm suốt sáng. Quyền lực điều khiển Quốc gia nằm trong tay các tu sĩ Phật giáo, vì các Tướng lãnh, các nhà hoạt động chính trị đảng phái đều “nể” mấy anh nhà Sư đầy tham vọng chính trị!

Thầy dạy học Phan Quang Đông cùng quê Nghệ An – Hà Tĩnh với tôi. Cha Mẹ thầy đều bị Việt Cộng đấu tố và giết trong Cải Cách Ruộng Đất. Thầy Phan Quang Đông là một người hiền lành, sống kín đáo, dạy tại trường Thiên Hựu (Providence) ở Huế, được bác sĩ Trần Kim Tuyến tuyển mộ vào làm việc tại Sở Nghiên Cứu Chính trị (thực chất là cơ quan Tình Báo). Về sau, thầy Đông được giao nhiệm vụ Giám đốc Sở Bắc, tức là cơ quan lo việc gửi gián điệp hoạt động trong lòng địch. Thầy Đông hoàn toàn không dính đến an ninh, mật vụ của ông Ngô Đình Cẩn ở Miền Trung.

Lúc nghe tin quân phản phúc đảo chánh ông Diệm ở Sài Gòn thành công, thầy Phan Quang Đông mang tất cả hồ sơ của những gián điệp hoạt động trong lòng địch trao cho Tướng Đỗ Cao Trí, Tư lệnh Quân Khu I và yêu cầu Tướng Trí chăm lo an ninh cho những anh em hoạt động gián điệp. Nhưng Tướng Trí không giữ lời, có lẽ sợ hãi thanh thế của Trí Quang, nên ông đã giao tất cả danh sách gián điệp của ta cho Trí Quang. Tướng Đỗ Cao Trí còn sợ Trí Quang, nói gì đến ai?

Vợ của thầy Phan Quang Đông là Nguyễn Thúy Toan học lớp Đệ Nhất C trường Quốc Học, tôi học lớp Đệ Nhất ban B. Tuy khác ban, nhưng chúng tôi có thể biết hầu hết tên các nữ sinh Đệ Nhất C1 (Pháp văn) và C2 (Anh văn). Sau khi thầy Phan Quang Đông bị xử tử hình ngày 28 tháng 3 năm 1964 tại sân Vận Động Huế, tôi có gặp nàng nữ sinh Quốc Học tên Thúy Toan. Nàng kể với tôi trong nước mắt: “Em có gặp Tướng Nguyễn Chánh Thi để nhờ ông can thiệp cho chồng em bị xử oan, nhưng Tướng Thi từ chối và bảo em đi gặp thầy Trí Quang để mà xin. Thầy Trí Quang cũng từ chối. Thầy nói Thầy là người tu hành, không dính dáng đến chính tr (!), hãy đi gặp các ông Tướng mà xin”. Tướng Trí, Tướng Thi đều sợ “uy danh” Thầy Trí Quang thì quân sĩ Việt Nam Cộng Hòa dù thiện chiến đến thế nào cũng phải thua trận thôi! "Thầy Trí Quang" là người có công đầu, dâng Miền Nam cho Cộng sản Hà Nội!

Sau năm 1975, tôi nghe nói Thúy Toan đem con xuống thuyền đi vượt biên và cả mẹ lẫn con đều chết trên biển? Thương tâm hết sức! Bạn đọc có thấy sự nghiệt ngã của một người có cha mẹ chết dưới bàn tay Cộng sản, bản thân chống Cộng để trả mối thù cho cha mẹ mình, thì bị tử hình vì những viên đạn của phía mệnh danh là Quốc Gia? Thầy Trí Quang, thủ lãnh Phật giáo tranh đấu lật đổ nền Cộng Hòa đã chối mình không làm chính trị, thì có đáng khinh bỉ hay không? Cao Huy Thuần tôn Trí Quang là vị Bồ Tát, thì có xứng đáng phỉ nhổ vào mặt tên Tiến sĩ ấy hay không?

Một giờ sau khi lãnh nhận bản án tử hình, trở lại nhà giam trung ương của tỉnh Thừa Thiên, ông Đông lấy giấy viết lá thư vĩnh biệt hiền thê dấu ái tên Margarita Thúy Toan như sau : “Tòa án cách mạng vừa kết án tử hình cho anh. Anh cố gắng cầm nước mắt để viết cho em những hàng chữ cuối cùng này, vì ngày còn lại cuộc đời anh nơi dương thế có thể đếm được trên các đầu ngón tay. Anh chỉ nghĩ đến duy nhất một mình em. Trong 5 tháng tù đày, hình ảnh em là suối nguồn mang niềm an ủi đến cho anh. Giờ đây đứng trước cái chết gần kề, anh giữ lại âu lo cho riêng mình và nguyện cầu cùng THIÊN CHÚA, Đức Mẹ MARIA ban cho chúng ta niềm an bình nội tâm và được hàn huyên lần cuối. Em yêu dấu, quả thực, không gì mạnh hơn tình yêu. Tình yêu xóa tan nỗi lo sợ cái chết gần kề. Tình yêu chiến thắng tất cả. Mấy tháng nay, anh cầu nguyện thật nhiều cùng Chúa và Mẹ Ngài, cùng Thánh Cả GIUSE và thánh nữ Magarita. Xin Các Ngài phù hộ chúng ta”.

Xin bạn đọc hãy lấy lương tâm trong sáng của mình để so sánh, lượng giá bức thư tuyệt mạng của văn hào Nhất Linh lên án chế độ Ngô Đình Diệm với bức thư của Thầy Đông viết cho vợ, mà không một lời phiền trách bọn phản bội giết oan ông, thì có thấy sự khác xa nhau một trời một vực giữa người chiến sĩ Chống Cộng có niềm tin Thiên Chúa với lãnh tụ Đại Việt Quốc Dân Đảng kiêm nhà văn hóa viết tiểu thuyết luận đề không? Tôi đã ngậm ngùi thương tiếc thầy Phan Quang Đông và người nữ sinh Thúy Toan – đồng môn Quốc Học – khi đọc lại bức thư này.

Ông Ngô Đình Cẩn bị Tướng Đỗ Cao Trí – Tư lệnh Quân Khu I – giải giao về Sài Gòn và giao cho Quân Cách Mạng giam giữ. Chánh án xử ông Cẩn là Đại tá Đặng văn Quang, con đỡ đầu của mẹ Đức Cha Nguyễn văn Thuận và chị của ông Ngô Đình Cẩn. Luật sư bào chữa cho ông Cẩn là luật sư Võ văn Quang (nếu tôi nhớ không lầm). Ông Ngô Đình Cẩn bị bệnh tiểu đường rất nặng, khi bị tù không được cho thuốc uống, nên ông không ngồi dậy được. Theo luật nhân đạo quốc tế, không xử tử khi phạm nhân mắc trọng bệnh. Luật sư Quan viết đơn gửi lên Quốc trưởng Nguyễn Khánh xin ân xá. Nhưng Nguyễn Khánh vì sợ hãi quyền hành của Trí Quang, nên bác đơn. Vì vậy, Tổng thống Lyndon B. Johnson mới gọi bọn Tướng lãnh phản bội giết gia đình Tổng thống Ngô Đình Diệm là một lũ côn đồ (gang of thugs). Các chiến sĩ anh hùng VNCH nghĩ gì về các ông Tướng của mình?

Tướng Edwards Lansdale, một sĩ quan Không Quân, đổi sang làm việc cho CIA. Lansdale là người có công giúp Tổng thống Ramon Magsaysay của Phi Luật Tân tiễu trừ quân phiến loạn Cộng sản. Năm 1954, Lansdale sang Việt Nam giúp ông Diệm thuyết phục lãnh tụ Cao Đài, Hòa Hảo trở về hợp tác với Chính quyền. Năm 1960 Trung tá Vương văn Đông – một sĩ quan trong Quân Đội Quốc Gia, nhưng là tay sai của Thực dân Pháp – làm cuộc đảo chánh. Lansdale yêu cầu Tướng Khiêm đem quân về Thủ đô chống cuộc đảo chánh. Tổng thống Diệm tưởng rằng  Tướng Trần Thiện Khiêm trung thành với chế độ, nên thăng cho Tướng Khiêm làm Tham Mưu trưởng Liên Quân, được quyền tuyển chọn sĩ quan trung thành giữ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn đóng quân gần Sài Gòn để cứu giá trong trường hợp Sài Gòn có biến. Đại tá Nguyễn văn Thiệu là người bạn thân của Tướng Khiêm, nên được ông Khiêm đề cử làm Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh.

Tháng 11 năm 1963, Sài Gòn có biến, Đại tá Nguyễn văn Thiệu đem quân về Thủ đô, nhưng áng binh bất động, chờ xem bên nào thắng thế thì ngã theo. Những Tướng lãnh sau khi đảo chánh Tổng thống Diệm vẫn còn tiếp tục đảo chánh, chỉnh lý liên tục đều bị cháy. Hai ông Trần Thiện Khiêm, Nguyễn văn Thiệu được ông Nguyễn văn Kiểu – anh ruột ông Thiệu – giới thiệu gia nhập đảng Đại Việt. Bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn và kỹ sư Hà Thúc Ký nhận lời tuyên thệ của hai ông Thiệu, ông Khiêm trước bàn thờ Tổ Quốc và di ảnh cố đảng trưởng Trương Tử Anh. Chủ thuyết của đảng Đại Việt do đảng trưởng Trương Tử Anh viết ra là “Dân Tộc Sinh Tồn”. Ông Thiệu và ông Khiêm gia nhập đảng Đại Việt không phải vì lý tưởng Dân Tộc Sinh Tồn, mà có mục đích đầu cơ chính trị. Bằng cớ là sau đó, ông Thiệu âm thầm lập đảng Dân Chủ cho sự nghiệp của riêng mình.

Trong cuộc họp thống nhất Đại Việt năm 1988 tại tư gia người bạn cùng khóa phi công với tôi – anh Nguyễn Quan Vĩnh – tại Thành phố San Jose, bắc California, tôi nói: “Đảng Đại Việt có nhiều dịp cầm quyền, nhưng các anh lãnh đạo đảng không nghiêm túc, làm cho nước mất. Theo quy luật đảng, người nào tự ý rời bỏ đảng đều phải chịu kỷ luật. Ông Thiệu bỏ đảng Đại Việt, tự động lập ra đảng Dân Chủ cạnh tranh với Đại Việt, mà các anh không phản ứng, lại còn chia quyền với ông Thiệu, thì các anh đã làm mất tư thế lãnh đạo quần chúng. Những lãnh tụ Đại Việt có mặt trong buổi họp gồm có bác sĩ Đặng văn Sung, bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn, Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, Đại sứ Bùi Diễm, Kỹ sư Hà Thúc Ký đều đã qua đời. Nhưng Tiến sĩ Nguyễn văn Canh còn đó, sẽ chứng thực cho những gì tôi đã phát biểu trong buổi họp, hoặc anh chủ nhà Nguyễn Quan Vĩnh còn lưu giữ cuốn băng ghi âm buổi họp lịch sử ấy.

Cho đến nay vẫn còn có người trách ông Ngô Đình Diệm gia đình trị, đầu óc địa phương, chân tay bộ hạ đa số gốc Miền Trung. Năm 1959, sau khi đọc cuốn “Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc” do cụ Hoàng văn Chí biên soạn, nói về Phong trào Nhân văn Giai Phẩm, tôi suy nghĩ rất nhiều và tự ý đi tìm một đảng có quá trình Chống Cộng để tham gia. Bởi vì Việt Cộng có tổ chức, thì mình phải gia nhập một tổ chức để chống lại âm mưu Việt Cộng thôn tính Miền Nam. Tôi gia nhập Đại Việt, vì đảng trưởng đảng này bị Việt Cộng giết, thì nhất định đảng sẽ quyết tâm diệt Cộng để báo thù. Vậy những gì tôi sắp sửa viết ra đây là từ một cựu đảng viên Đại Việt, chứ không phải bênh vực ông Diệm vì “hoài Ngô” như bọn dư đảng Ấn Quang chụp mũ tôi.

Ông Ngô Đình Diệm người Miền Trung, cựu quan lại của Triều đình Nhà Nguyễn ở Huế, tất nhiên ông cần người tâm phúc để đặt niềm tin. Đỗ Mậu gốc lính Khố Xanh, cùng quê Quảng Bình với ông Diệm, phục vụ dưới quyền Tổng Đốc Ngô Đình Khôi, anh ruột Tổng thống Diệm. Ông Diệm từ chức Thượng Thư Bộ Lại vì Thực dân từ chối thi hành yêu sách của ông. Không còn chức vụ, ông Diệm không còn có lính hầu. Ông Ngô Đình Khôi biệt phái Đỗ Mậu sang kéo xe cho ông Diệm. Đỗ Mậu tỏ ra lễ phép, kính trọng vị quan thanh liêm Ngô Đình Diệm. Từ đó, tình thầy trò trở nên sâu đậm. Ông Diệm chọn ông Đỗ Mậu, một bề tôi tâm phúc của mình, làm Giám đốc An Ninh Quân Đội để làm tai mắt cho mình là hết sức đúng. Ai cũng làm như vậy thôi!

Nhân vật số 2 của chế độ là Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ, người Miền Nam. Nhân vật số 3 của chế độ là Ngoại trưởng Vũ văn Mẫu, người Miền Bắc. Tại sao người dân tin vào sự tuyên truyền chia rẽ của Việt Cộng kết tội ông Diệm là nhà lãnh đạo có đầu óc địa phương?

Tiếc cho ông Diệm không cái kính chiếu yêu như Tề Thiên Đại Thánh để biết lòng dạ của thuộc cấp. Những kẻ chịu ơn mưa móc của ông Diệm đều phản ông. Đỗ Mậu là người đi móc nối các đơn vị trưởng chỉ huy Quân Đội để làm cuộc đảo chánh năm 1963. Trung tướng Tôn Thất Đính nhờ tài nịnh hót ông Cụ, lúc nào cũng xưng con với ông Diệm, nên cùng một lúc được trao ba chức vụ quan trọng: Tư Lệnh Quân Đoàn III, Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô, Tổng trấn Saigon – Gia Định. Nhưng Tướng Tôn Thất Đính lại là người phản bội đầu tiên, chịu trách nhiệm về cái chết tức tưởi của anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm. Kẻ phản bội được bầu làm Thượng Nghị sĩ Quốc Hội VNCH!

Dưới thời Tổng thống Eisenhower, báo chí Mỹ ca ngợi ông Diệm không tiếc lời. Sang thời Tổng thống Kennedy, báo chí tả khuynh bắt đầu chê bai ông Diệm. Nếu bất bình chính sách của Tổng thống Ngô Đình Diệm, Hoa Kỳ thiếu gì cách để đẩy anh em ông Diệm ra khỏi vai trò lãnh đạo Miền Nam? Chẳng hạn, cúp viện trợ tài chánh thì ông Diệm lấy tiền đâu để trả lương cho quân nhân, công chức? Cúp viện trợ quân sự, không súng đạn, không có xăng dầu cho cho tàu thủy, tàu bay và xe cơ giới, chẳng lẽ Tổng thống Ngô Đình Diệm chống Cộng bằng hai bàn tay trắng được sao? Lucien Conein là nhân viên Tình Báo CIA, gốc Pháp có máu Thực dân, là người chủ chốt bỏ tiền ra mua chuộc một số Tướng lãnh phản phúc làm đảo chánh. Theo tường thuật của một vài sĩ quan tùy viên của các ông Tướng âm mưu đảo chánh như sau: “Lucien Conein tuy chỉ là Trung tá, nhưng tỏ ra hách dịch. Ông ta gác hai chân lên bàn, ngồi dựa ngửa vào thành ghế và ra lệnh cho mấy ông Tướng phải làm gì, làm gì”. Tôi tin lời kể của sĩ quan tùy viên, vì tôi từng lái máy bay chở mấy ông Tướng bị Tướng Nguyễn Khánh làm Chỉnh Lý bắt và đày ra Tiên Sa ở Vùng I. Các ông Tướng lúc sa cơ, mặt mũi thất thần khá tội nghiệp, chứ không còn cái vẻ oai vệ trước hàng quân dưới quyền.

Giết anh em ông Diệm, Hoa Kỳ đã tự tạo cho bạn Đồng Minh thấy rõ bộ mặt tàn ác của mình. Uy tín của Hoa Kỳ bắt đầu sa sút trên thế giới kể từ ngày đó. Chơi với Hoa Kỳ rất khó, bởi vì chính sách của Mỹ thay đổi tùy theo thời điểm đảng Cộng Hòa hay đảng Dân Chủ ngồi vào Tòa Bạch Ốc. Nhật Bản “chơi” với Mỹ dài lâu được là vì chính trị gia Nhật yêu nước, biết đặt quyền lợi nước Nhật lên trên hết, nên ngoại ban khó lòng mua chuộc. Truyền thống dân chủ Hoa Kỳ là “thăm dò dư luận” (Surveil hay Poll) để bắt mạch thời cuộc. Tôi bảo đảm rằng Hoa Kỳ đã thăm dò lãnh tụ của các đảng phái về Tổng thống Ngô Đình Diệm, thì ông nào cũng chê ông Diệm độc tài, gia đình trị để họ được là “ứng viên” (candidate) lọt vào mắt xanh của Mỹ. Tôi biết các bạn đọc cảm thấy đau lòng về sự kiện này, nhưng tôi nói ra thực trạng ấy để bạn đọc hiểu tại sao Việt Nam khó giành độc lập. Thủ phạm của tình trạng này là do bè lũ  bán nước Hồ Chí Minh mang về cái chủ nghĩa cộng sản áp đặt lên đầu dân ta. Không có cộng sản, thì làm gì có cuộc chiến tranh Việt Nam? Không có cộng sản thì dân Việt Nam đâu phải mang nỗi nhục mất nước?

Rất có thể bạn đọc cho rằng cái gì xấu xa, thối nát tôi đều đổ cho cộng sản? Không! Tôi không đổ tội cho cộng sản mà không có lý do. Nếu trí thức Việt Nam ta khi thấy Hồ Chí Minh nhận Trung Cộng – kẻ thù tiền kiếp của ta – làm anh em, thì tẩy chay ngay, đừng nhắm mắt cúi đầu phục vụ nó, làm sao Hồ Chí Minh có thể vận động toàn dân hy sinh xương máu giành độc lập? Sở dĩ trí thức Việt Nam trở nên ngu, là bởi vì lời nguyền rủa của những oan hồn người Chàm dùng quỷ sứ cộng sản để trả mối thù xưa. Ai có thể giải thích khác hơn về cái ngu của bọn trí thức Miền Nam trong cuộc chiến tranh Quốc – Cộng vừa qua, vui lòng giảng cho tôi hiểu, tôi xin cảm phục và cám ơn vô cùng. Đồng ý hay không đồng ý, các trí thức hãy lên tiếng đi! Nếu cứ ngậm miệng ăn tiền giống như Đại Tướng Trần Thiện Khiêm thì tám ngàn năm dân Việt Nam cũng không thể lớn được, chứ đừng nói bốn ngàn năm mà không lớn giống như cô giáo Trần thị Lam đã viết thành thơ.

Hẹn bạn đọc bài viết tiếp theo. Xin quý bạn đọc kiên nhẫn theo dõi, vì đây là vấn đề tồn vong của nòi giống Việt Nam, xin đừng quên!

Bằng Phong Đặng văn Âu, ngày 18 tháng 6 năm 2022.

Địa chỉ Email: bangphongdva033@gmail.com

Telephone: 714 – 276 – 5600.