Những Sự Thật về cái chết của Hoàng Cơ Minh
(Bài
này đã đăng trên Văn Nghệ Tiền Phong trang 25 26-27
và 88-89 số 303, từ ngày 1 đến 15 tháng 9 năm 1988).
Nguyễn Toàn
- Hoàng Cơ Minh đã chết như thế nào ?
- Các tướng Thái khai thác “dịch vụ kháng chiến” ra sao ?
- Ai chủ trương Khủng Bố người làm báo ?
- Nhóm Nguyễn Đồng Sơn và những mưu đồ mới.
Lời Mở Đầu: Có những sự kiện trong lịch sử của nhân loại nói chung, hay của một
dân tộc nói riêng, đã khắc sâu vào tâm khảm của con người từ thế hệ này sang
thế hệ khác. Tại Việt Nam, cho tới nay, khi nghe nhắc tới bao vụ khủng bố dã
man, tàn ác, gian manh lừa bịp đối với người dân Việt của Hồ chí Minh và đảng
Cộng-sản Việt Nam qua việc tình nguyện làm tay sai cho Nga, Tàu, để lần lượt
buôn dân bán nước; thì mọi người đều đã nhận chân được: Đảng CSVN là lũ tội đồ
của dân tộc.
Trớ trêu thay, trong cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng-sản tại hải
ngoại, hiện nay vẫn còn những bè đảng, tổ chức, cũng mạo nhận là người
"Quốc Gia", "chống cộng", nhưng hành động của chúng lại làm
lợi cho đảng CSVN để kéo cả nước xuống tình trạng suy đồi mọi mặt như hiện nay!
Thêm vào đó, hiểm họa nô lệ giặc Bắc phương cũng gần kề!
Nhận thấy bài viết: "Những sự thật về cái chết của Hoàng Cơ
Minh" dưới đây, của tác giả Nguyễn Toàn đến nay vẫn còn giá trị thời sự;
bài viết nói về sự thật của "Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt
Nam", viết tắt là "Mặt Trận" và hiện nay là "đảng"
Việt Tân. "Đảng" Việt Tân đã được đoàn viên "Mặt Trận" công
khai cho ra đời ngày 19/9/2004, tại Berlin, Đức quốc.
Xin trân trọng kính mời quý độc giả cùng theo dõi.
Trước khi nói đến cái chết của ông Hoàng Cơ
Minh, thiết tưởng cần phải lội ngược lại thời gian, khi “Mặt Trận” được thành
lập, và những hoạt động của nó, để từ đó đưa đến cái chết tăm tối của người
đứng đầu tổ chức từng được xảo thuật tuyên truyền của “Mặt trận” đưa lên cao
như một vị anh hùng dân tộc.
Từ Thu Tiền Ở Hải
Ngoại, Đến “Chiến Khu Quốc Nội”
Thật ra, vào năm 1982, khi hai ông Hoàng Cơ
Minh và Phạm Văn Liễu dựng ra “Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt
Nam” (MTQGTNGPVN), thì nhóm này chỉ đưa được có 8 (tám) người về Thái Lan.
Nhưng, nhờ biết cướp thời cơ lúc tinh thần người Việt lưu vong đang lên cao, và
nhất là nhờ những xảo thuật tuyên truyền lừa bịp như mấy phút phim video “Đông
Tiến” dàn cảnh ở Thái Lan, “Mặt Trận” đã đưa “uy tín” của “Chủ tịch Hoàng Cơ
Minh” và phe nhóm lên rất cao.
Trong khi “chiến khu quốc nội” chỉ có trên
phim video, thì tại hải ngoại, “Phong Trào Yểm Trợ Kháng Chiến” do ông Phạm
Ngọc Lũy chủ xướng tha hồ thu góp tiền bạc, các “cán bộ lãnh đạo Mặt Trận” trở
thành những “quan lớn phục quốc” rất hách dịch. Đoàn viên “Mặt Trận” thì vênh
váo, làm như là sắp giải phóng được đất nước tới nơi và sắp đè đầu, cưỡi cổ
thiên hạ. Đây là giai đoạn cực thịnh của nhóm Minh-Liễu, vì đã thành công trong
việc đánh lừa được đa số người Việt tỵ nạn, khiến một số ít người phát giác
được trò lừa bịp của “Mặt Trận” có nói lên cũng không mấy ai tin, mà còn bị
chụp mũ là Việt cộng, hoặc bị khủng bố…
Năm 1983, ông Hoàng Cơ Minh từ “chiến khu quốc
nội” về Hoa Kỳ với chiếc khăn rằn quàng cổ để mở “Đại Hội Chính Nghĩa”, tuyên
bố là đã “thống hợp được 36 (ba mươi sáu) tổ chức kháng chiến gồm 10,000 (mười
ngàn) tay súng ở quốc nội”, nhưng sự thật “chiến khu” này chỉ là một mảnh rừng
ở Buntharit, thuộc tỉnh Uborn, được viên tướng Thái Sút-Sai, Tư lệnh đơn vị 309
Tình báo làm ngơ cho sử dụng với số tiền “trà nước” lúc đầu khoảng 2,000/ 3,000
đô la Mỹ, và phải đóng “hụi chết” hàng tháng từ một tới ba ngàn Mỹ kim,
chưa kể quà cáp biếu xén các bà tướng, bà tá “nước bạn”.
“Chiến khu” này, chính là nơi đã được nhóm
Minh-Liễu dùng để khai sinh “MTQGTNGPVN” vào ngày 8.3.1982, công bố “Cương lĩnh
chính trị” kêu gọi “người người nổi dậy, nhà nhà thành công chiến đấu chống lại
bạo quyền cộng sản”. Tuy trình diễn rình rang và hô hào đao to búa lớn như vậy,
nhưng thực ra như trên đã nói, cán bộ nòng cốt của “Mặt Trận” tại “chiến khu”
không quá 8 (tám) người (trong đó, có Hoàng Cơ Minh, Lê Hồng, Nguyễn kim Huờn,
Nguyễn Trọng H. Lạc), còn các “kháng chiến quân” xuất hiện trong video hầu hết
là… thuê của Thái Lan!
Tàn Ác và Sắt Máu
Tuy số cán bộ của “Mặt Trận” tại “chiến khu”
đếm không đủ mười đầu ngón tay, nhưng Hoàng Cơ Minh đã phong Tướng… không có quân
cho tả hữu. Cựu Trung tá Nhảy dù Lê Hồng, bí danh Đặng Quốc Hiền, được phong
“Tướng Tư lệnh Lực lượng Kháng chiến”, cựu Đại tá Dương Văn Tư (gia nhập “Mặt
Trận” từ trại tỵ nạn Thái Lan) được phong “Tướng Tư lệnh Chiến khu (ở Uborn),
ông cựu Trung úy Phòng 7 Bộ Tham Mưu Nguyễn Trọng H., bí danh Huy, được thăng
“Đại tá Tư lệnh phó Lực lượng Vũ trang. Huy có một Album hình ảnh “Lễ Tuyên Bố
Cương Lĩnh Mặt Trận” và sinh hoạt ở “chiến khu” đem vào các trại tỵ nạn để
tuyên truyền và tuyển mộ quân.
Trong thời gian 1982-1983, có hai người Việt
làm việc cho Tòa Đại Sứ Mỹ ở Bangkok là các ông V. và N., đã giúp nhóm Hoàng Cơ
Minh rất nhiều. Tuy nhiên, sau một thời gian sôi nổi lúc đầu, những người có
mặt tại Thái Lan đã thấy rõ hơn ai hết chân tướng của phe nhóm Hoàng Cơ Minh,
nên ai có thể xa lánh dược, thì xa lánh, ai bị “kẹt” thì bất bình và bất mãn.
Để trấn áp các sự phản kháng và ngăn chận “đào ngũ” Hoàng Cơ Minh đã cho thi
hành kỷ luật thép, và hơn thế nữa, đã dùng sự tàn ác sắt máu đối với những người
bất tuân phục. Không kể một số thanh niên vô danh theo “Mặt Trận” từ các trại
tỵ nạn, sau đó, đã bị thủ tiêu vì định bỏ “chiến khu”, còn những cái chết bí ẩn
của một số người được dư luận biết đến. Được nói tới nhiều nhất là cái chết của
Kỹ sư Ngô Chí (Trí) Dũng, một thanh niên trí thức đầy nhiệt huyết đã bỏ đời
sống êm ấm tiện nghi ở Nhật Bản đi theo “Mặt Trận”, người đóng góp rất nhiều
cho “Mặt Trận” và cũng là người đã nuôi dưỡng “Chủ tịch Hoàng Cơ Minh” lúc còn
bôn ba… ăn nhờ ở đậu tại Nhật. Ông Dũng đã tới sống tại “chiến khu” và rồi
không biết chuyện gì đã xẩy ra, mà sau đó, ông Dũng bị giết chết hết sức bất
ngờ, xác được vùi ở một khu rừng chồi tại Buntharit. Một người khác là bác sĩ
Nguyễn Hữu Nhiều, một cựu sĩ quan trợ y trong QLVNCH được “Mặt Trận” tuyển mộ
tại trại tỵ nạn, và thăng chức bác sĩ. Ông Nhiều đã bị “Mặt Trận” xử tử. Chưa
kể Đại tá Dương Văn Tư chết vì bệnh hoạn và thiếu dinh dưỡng, ít nhất cũng có
ba người bị thủ tiêu tại “chiến khu” trong một thời gian ngắn.
Cái chết của Hoàng Cơ
Minh:
Vào năm 1985, khi tại Hoa Kỳ, cánh Phạm Văn
Liễu, Trần Minh Công tách ra khỏi “Mặt Trận” và những mánh lới lừa bịp nhằm moi
tiền đồng bào được chính các thủ phạm vạch áo cho người xem lưng, thì cũng là
lúc tại Thái Lan, nhà cầm quyền nước này làm khó dễ, trục xuất toàn bộ nhóm
Hoàng Cơ Minh về Mỹ (trong đó có Hoàng Cơ Minh, Nguyễn Kim H. Nguyễn Trọng H…).
Thật ra, Hoàng Cơ Minh không mấy khi có mặt tại Thái Lan. Thỉnh thoảng Hoàng Cơ
Minh có qua Thái Lan, nhưng thường ở căn nhà tại khu Sảm-Sẻn, được gọi là “Hậu
trạm”, chứ ít khi ông ta xuất hiện tại “chiến khu”.
Khi xảy ra vụ các “chiến hữu” chia ra hai phe
bôi mặt đá nhau vì ăn chia không đồng đều và “Mặt Trận” đang trên đà tan rã thì
Hoàng Cơ Minh ở luôn tại San Jose, Bắc California, thỉnh thoảng tới họp với các
“xứ bộ” còn trung thành để làm ra vẻ “Mặt Trận” vẫn còn mạnh lắm. Ông ta mặc đồ
lớn, chứ không còn mặc áo bà ba, cuốn khăn rằn ở cổ nữa!
Trong khi đó, “chiến khu quốc nội” tại Thái
Lan lâm cảnh rắn không đầu, và bị “đuổi nhà” nên tự động tan rã, và còn một ít
người vì lý do này hay lý do khác phải sống chết với “Mặt Trận” thì di chuyển
lên vùng Udon.
Gần cuối năm 1987, sau khi tạm “củng cố hàng
ngũ” còn lại ở quốc ngoại, Hoàng Cơ Minh lại vận động đút lót để được trở lại
“quốc nội Thái Lan” nhưng vừa đặt chân đến đất Thái, ông ta đã nhận được lệnh
của viên tướng Svet, Tư Lệnh vùng biên giới, bắt phải đổi căn cứ lên miền Bắc
Thái. Hoàng Cơ Minh không còn cách nào khác hơn là phải tuân lệnh viên tướng
Thái này, một lần nữa phải di chuyển căn cứ từ Udon lên Bắc Thái với dự định
lập căn cứ mới tại khu Bukdahan, sát biên giới Thái-Lào. Chính trong cuộc di hành này, mà Hoàng Cơ Minh đã bị một
số “kháng chiến quân” bắn chết. Bốn người trong số “kháng chiến quân” từng bị Hoàng Cơ Minh bỏ
rơi ở Thái Lan từ năm 1985, với sự xúi dục của tên Lưu Tuấn Hùng đã bất
ngờ rút súng bắn sả vào Hoàng Cơ Minh trong lúc đang đi dọc đường. Cần mở một
dấu ngoặc ở đây để nói thêm về Lưu Tuấn Hùng. Y là một tên gián điệp Việt cộng
dưới quyền điều khiển của Trung tá công an Việt Cộng “Việt Dũng” thuộc
“Sở công an TP Hồ chí Minh”, được gửi đi vượt biên với ý đồ trường kỳ mai phục
hoạt động trong các lực lượng chống cộng ở hải ngoại. Năm 1983, Lưu Tuấn Hùng
được cựu Trung tá Nguyễn văn H. người từ trại tỵ nạn Sikiew ra làm việc cho cơ
quan tình báo Hoa Kỳ ở Aranyaprathet đưa ra khỏi trại để điều tra và định dùng
y xâm nhập Việt Nam, nhưng rồi kế hoạch không được thực hiện. Hùng được trả về
trại Sikiew. (Ông NVH hiện cư ngụ ở Virginia. Vài tháng sau, người ta thấy
Nguyễn Kim H. và Nguyễn Trọng H. đến trại tiếp xúc với Lưu Tuấn Hùng và kết nạp
y làm “Đại diện Mặt Trận” tại Sikiew. Hắn đã mua chuộc được sự tín nhiệm của
Hoàng Cơ Minh và được ông này sử dụng làm “tùy viên”. Chính Lưu Tuấn Hùng đã
xúi dục bốn người khác giết chết Hoàng Cơ Minh để đoạt hai ký lô vàng mà ông
này mang
theo định để đút lót các viên chức Thái trong việc lập lại “chiến khu” mới.
Sau khi Hoàng Cơ Minh “chết”, nhóm người đi
theo ông ta (độ 60 người) sợ bị Thái Lan bắt trừng trị, nên không còn con đường
nào khác hơn là tạm thời vượt sông Mekong kéo nhau sang Nam Lào, không may lọt
vào ổ phục kích của Lào Cộng, bị sát hại một số, còn một số bị bắt làm tù binh
Việt Nam, trong số này có cả Lưu Tuấn Hùng. Bởi vậy, người biết chuyện không hề
ngạc nhiên khi được tin “Tòa án nhân dân TP Hồ chí Minh” chỉ xử Lưu Tuấn
Hùng tù treo! Một chế độ cộng sản sắt máu không bao giờ xử án treo kẻ đã vượt
biên trốn ra khỏi nước, gia nhập lực lượng kháng chiến và trở về chống phá
chúng bằng vũ khí. Trừ khi kẻ ấy là người của chúng cài vào. Chi tiết về cái
chết của Hoàng Cơ Minh đã được một số sĩ quan cao cấp Thái, trong đó, có Đại tá
Thammasak thuộc Lực Lượng Đặc Nhiệm 80 ở vùng biên giới Prachinburi, xác
nhận với kẻ viết bài này.
Nhóm Nguyễn Đồng Sơn
và những mưu đồ mới:
Sau khi Hoàng Cơ Minh
chết, MTQGTHGPVN không dám công bố tin tức này, vì sợ “Mặt Trận” tan rã và hơn
nữa sợ nội bộ sẽ xâu xé nhau để giành giựt tiền bạc vì nhờ số tiền bịp bợm
quyên góp được của đồng bào khắp nơi trong mấy năm, “Mặt Trận” đã sử dụng để kinh
tài dưới nhiều hình thức như:
Hệ thống Phở Hòa, hệ
thống Phở Bằng, hệ thống tàu đánh cá, hệ thống xuất nhập cảng hàng Á châu (nhất
là thực phẩm), tiệm bida, mua nhà cho thuê… sau nhiều năm đã sinh lợi rất
nhiều.
Vào tháng 5.1988 vừa qua, Nguyễn Kim Huờn, bí
danh Nguyễn Kim, “Tổng vụ trưởng Tổng vụ Hải Ngoại MTQGTNGPVN” đã cùng Nguyễn
Xuân Xuân Nghĩa, bí danh Nguyễn Đồng Sơn, trở lại Thái Lan (nhờ móc nối với một
sĩ quan cấp tướng của Thái, đút lót tiền nhiều để xin được đỡ đầu) để vận động
lập lại “chiến khu quốc nội mới” và sẽ tiếp tục xin phép vào các trại biên giới
(các trại đang bị Thái chèn ép bắt giam và đòi trả về Việt Nam) để tuyển mộ
người (những người trong các trại này đang sống trong tình trạng tuyệt vọng, dễ
bị quyến dụ đi theo).
Với sự đút lót và vận động của Sơn-Kim, viên
sĩ quan cấp tướng của Thái Lan đang định thúc ép nhóm “kháng chiến” của Thái
Quang Trung phải sáp nhập với nhóm của Sơn-Kim để thành lập lại trại Bukdahan.
Sau khi đã có trại mới, có một ít quân, họ sẽ xúi dục những người này bịa ra
câu chuyện chiến đấu ác liệt với cộng sản và nhân đó, sẽ công bố cái chết của
Hoàng Cơ Minh. Họ cũng đã chuẩn bị đưa phó Đề Đốc Hải quân Đinh Mạnh Hùng lên
làm “Chủ tịch Mặt Trận.
Tông tích Nguyễn Đồng Sơn không còn lạ gì đối
với các tổ chức chống Cộng ở hải ngoại, cũng như với cơ quan an ninh Thái Lan.
Y là cháu ruột của Nguyễn Xuân Cúc, bí danh Mười Cúc, tức Nguyễn Văn
Linh, đang là chúa trùm đảng cộng sản Việt Nam.
Trước 30.4.1975, Nguyễn Đồng Sơn cùng cánh với
Nguyễn văn Hảo. Sau khi cộng sản chiếm đoạt miền Nam, Nguyễn Đồng Sơn cũng đã
cùng Hảo giúp cho Việt cộng tiếp thu của cải và “quản lý” kinh tế miền Nam, sau
đó, cả hai được Việt cộng cho rời Việt Nam sang Pháp theo đường chính thức. Năm
1983, Nguyễn Đồng sơn đã sang Hoa Kỳ tìm cách xâm nhập “Mặt Trận” và mua được
lòng tin cậy của mấy anh em Hoàng Cơ Minh.
Nhóm Thái Quang Trung (con của cụ Thái Văn
Kiểm) tuy có nhận sự trợ giúp của Tầu Cộng, nhưng các “kháng chiến quân” sống
tại căn cứ Bukdahan cũng rất thiếu thốn cực khổ, và không có tiền mặt để đút
lót cho Tướng, Tá Thái Lan, nên có thể phải nhập với “Mặt Trận” của Sơn-Kim để
có thêm phương tiện và nhân sự hầu làm vừa lòng các Tướng Tá Thái Lan, để được
yên, bằng cách canh chừng biên giới và xâm nhập lãnh thổ Đông Dương thâu thập
tin tức tình báo cho Thái. Nếu dự định này thành tựu thì sau Hoàng Cơ Minh,
“Mặt Trận” của Kim-Sơn sẽ trình diễn một màn lừa bịp thứ hai.
Tiếp tục Khủng bố
Từ ngày “Mặt Trận” ra
đời đã xảy ra nhiều vụ Khủng Bố nhắm vào các phần tử Quốc Gia, đặc biệt là
những người cầm bút, trong giới người Việt lưu vong tại Mỹ. Từ đe dọa, đến ám
sát, đốt nhà… Những người bị Khủng bố đều có chung một “tội” là không chịu hùa
theo đồng lõa với những trò lừa bịp của “Mặt Trận”, nên dù không tìm ra thủ
phạm, dư luận vẫn biết ai đã chủ mưu những vụ này.
Một hôm vào trung tuần tháng 5.1988, nhân dịp
Sơn và Kim đến Bangkok, nhờ tình cờ nghe được câu chuyện trao đổi giữa hai đoàn
viên “Mặt Trận”, kẻ viết bài này càng tin thêm là dư luận đã không sai lầm.
Hôm ấy, kẻ viết bài này đang ngồi trong một
Snack bar ở đường Sukhumvit, Bangkok, một nơi dành cho người ngoại quốc du hí,
thì gặp hai người Á châu có đeo huy hiệu “Mặt Trận” trên ve áo vest. Người viết
tảng lờ như không biết họ là người Việt Nam, ngồi tán tiếng Thái với cô
cashier, trong khi vẫn lắng nghe và để ý dò xét hai người này. Một trong hai
người dè dặt đưa mắt nhìn người viết rồi nói gì đó với bạn đồng hành. Sau đó,
một người giả bộ cầm điếu thuốc lá sang hỏi người viết xin mồi lửa bằng tiếng
Việt. Người viết cũng phải đóng kịch bằng cách ngẩn tò te như không hiểu hắn
nói gì và hỏi lại bằng một tràng tiếng Thái:
- Tôi không hiểu ông nói gì? Tôi là người
Thái. Bộ ông là người Nhật hả? Tôi không biết tiếng Nhật.
Y cười, nói với tôi bằng tiếng Anh:
- Ồ xin lỗi ông, tôi nghĩ ông là người Nhật
như chúng tôi.
Từ đó, hai người không e ngại tôi nữa. Họ thản
nhiên nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt nho nhỏ. Trong bar, ngoại trừ tôi và
hai người đó là Á châu cùng với cô cashier duyên dáng người Thái, còn khách
toàn là Tây phương; vì vậy, hai người này không phải e dè gì cả. Nhưng họ không
biết một điều tối hệ trọng là ở Bangkok có rất nhiều gián điệp của nhiều quốc
gia Tây phương và của cả cộng sản nữa, và rất nhiều người biết tiếng Việt,
nghe, viết, nói cả tiếng Việt rất giỏi. Có nhiều người nếu không gặp mặt, nhìn họ
nói mà chỉ nghe qua vách thì sẽ nghĩ là hai người Việt đang nói chuyện với
nhau.
Sau khi nói những chuyện tầm phào, bá vơ,
chuyện chơi bời du hí ở các động sang trọng của thủ đô Bangkok, nơi rất nổi
tiếng về các món ăn chơi ở vùng Đông Nam Á, hai người vừa uống bia Singha (loại
bia đen của Thái rất nặng), vừa trò chuyện. Một người hỏi:
- Tại sao không làm luôn thằng Nguyễn Thanh
Hoàng của tờ Văn Nghệ Tiền Phong cho rồi?
- Tại sao phải làm thằng Nguyễn Thanh Hoàng?
- Tên này liên tiếp chửi bới, bôi nhọ và lật
tẩy Mặt Trận. Nếu không “dứt” thì sẽ tai hại rất nhiều, vì y nắm được rất nhiều
tài liệu về hoạt động của Mặt Trận.
- Vậy sao mình không dứt bọn nó cho rồi.
- Bây giờ chưa được. Vì bứt dây động rừng ông
biết không? Biết đâu bọn nó đã nhờ cảnh sát bảo vệ, mình cựa quậy bây giờ là
nát xương…
Kháng Chiến Phục Quốc Hay Giữ Dưa?
Như trên đã trình bày, chính sách Thái Lan từ
trước tới nay đối với các tổ chức kháng chiến chống cộng sản Việt Nam, là mở
cửa cho bất cứ người nào có khả năng về nhân sự, tài chánh, và tổ chức để gây
dựng một “chiến khu” ở vùng biên giới Thái-Miên hoặc Thái-Lào. Áp dụng chính
sách này, Thái Lan có hai điều lợi: Thứ nhất, là họ có một đơn vị biên phòng
ngăn cản Việt cộng mà không phải trả lương. Thứ hai, là họ có thể sử dụng những
lực lượng kháng chiến Việt-Miên-Lào để trả giá với Việt cộng. Nếu Việt cộng tấn
công mạnh sang đất Thái, họ sẽ có cớ để mặc cả bằng cách dọa dẫm sẽ yểm trợ các
lực lượng kháng chiến của cả ba nước Đông Dương mạnh hơn… Dù sao thì người Thái
vẫn có lợi, đó là chưa kể đến cái lợi về tài chánh do lực lượng có căn cứ ở
biên giới Thái phải yểm trợ cho kháng chiến của mình qua tay của người Thái.
Kháng chiến đã trở thành một dịch vụ sinh lợi cho các vị tướng lãnh Thái, Tư
lệnh các đơn vị được phép yểm trợ cho từng tổ chức kháng chiến. Thí dụ: đơn vị
309 tình Báo Biên Giới trực thuộc Bộ tư Lệnh Quân Đội Hoàng gia Thái Lan đỡ đầu
cho “Mặt Trận” của Hoàng Cơ Minh. Họ đã che chở cho nhóm Hoàng Cơ Minh và trực
tiếp chỉ huy những người lãnh đạo lực lượng Hoàng Cơ Minh. Tư lệnh của đơn vị
309 Tình Báo là tướng Sút-Sai, một người đã được hưởng khá nhiều tiền của nhóm
Hoàng Cơ Minh qua trương mục ở Ngân Hàng Quân Đội. Ngoài số tiền “thuê” mảnh
đất rừng ở Bultarit, tỉnh Ubon, phải đóng lần đầu cho vị tướng này (khoảng từ 20,000
đến 30,000 dollars); hàng tháng “Mặt Trận” lại phải đóng “hụi chết” cho các vị
tướng Thái, khi thì 1000 đô la, khi 2-3000 vô kể. Ngoài ra còn phải quà cáp
biếu xén bà Tướng, và các vị Đại tá, Trung tá… Đơn vị 315 Tình Báo Biên Giới
Thái là cha đỡ đầu cho nhóm kháng chiến của ông Lê Quốc Túy.
Những đơn vị kháng chiến trở thành những tiền
đồn cho Thái Lan và tùy theo các đơn vị Thái đỡ đầu, các lực lượng kháng chiến
Việt Nam còn phải làm công tác tình báo, trinh sát vào nội địa Lào, Miên để thu
thập tin tức tình báo. Vì thế, khi nhìn hình ảnh các kháng chiến quân người
Việt Nam, người ta thấy mặc quân phục Thái, đội mũ của lực lượng biên phòng
Thái, nhiều người đã tưởng rằng đây là đơn vị của Thái Lan, và không ai nghĩ
rằng đó là những người bị giới hạn cư ngụ trong những vùng đèo heo hút gió,
không có quyền đi ra khỏi khu vực trú đóng. Thỉnh thoảng mới có một, hai người
được người Thái chở vào các thị xã để mua bán, hoặc liên lạc với “hậu trạm” đặt
tại Bangkok.
Lực lượng kháng chiến nào cũng có “hậu trạm”
đặt tại Bangkok. Khi thì đặt tại nhà một vị Tướng Thái, có số điện thoại để
liên lạc viễn liên về Hoa Kỳ và các “hậu trạm' này đều thuê hộp thư ở bưu điện
để liên lạc với các tổ chức yểm trợ tại Hoa Kỳ hoặc các nước khác.
Cũng có khi thì “hậu trạm” được các sĩ quan
Thái của đơn vị đỡ đầu thuê cho ở một căn nhà bên ngoài thuộc khu an toàn, và
thường là nhà của các sĩ quan cao cấp Thái để bảo đảm an toàn; tất nhiên cũng
có đầy đủ tiện nghi và phương tiện để liên lạc đi các nơi. Trung bình giá một
căn cứ (là một cánh rừng thuộc các tỉnh Đông Bắc Thái Lan giáp ranh giới Miên,
Lào), các lực lượng kháng chiến Việt Nam trả cho các vị tướng Thái vào khoảng
20,000 đến 30,000 Mỹ kim… mỗi tháng, lại phải đóng tiền “thuê rừng” cho vị Tướng
vào khoảng 2,000 đến 3,000 dollars. Số tiền này hoàn toàn vào túi riêng của vị
tướng. Khi vui thì họ cho ở, phật ý thì họ đuổi.
Trên thực tế, chính quyền Thái chưa bao giờ
chính thức yểm trợ các tổ chức kháng chiến Việt Nam, các nhân vật lãnh đạo các
tổ chức kháng chiến chỉ được sự che chở ngầm của quân đội Thái và các Tướng chỉ
huy đơn vị đỡ đầu. Vì vậy, tình trạng của các đơn vị kháng chiến rất mong manh,
nhất là anh em từ các trại tỵ nạn nhập vào. Họ bị sống bơ vơ trong các
căn nhà lá nằm cheo leo trong những rừng núi hoang vu mà tình trạng tiện nghi
rất là thiếu thốn, sinh hoạt hàng ngày cũng vô cùng eo hẹp. Đối với một số
những cán bộ lãnh đạo đã có Quốc tịch ở các Quốc gia tạm dung như Pháp, Úc…
thì tình trạng khá hơn, vì khi ông Tướng Thái không bằng lòng vì một lý do nào
đó (như nộp tiền hàng tháng trễ), thì họ chỉ trục xuất các cán bộ lãnh đạo này
ra khỏi nước Thái; còn những người ở các trại tị nạn ra thì đi cũng không xong,
mà ở cũng không chẳng được, tình trạng này thật là vô cùng bi đát. Người nào
liều lĩnh trốn đi một cách bất hợp pháp, nếu người Thái bắt được sẽ bị đánh đập
dã man, nếu không thì lọt vào tay cộng sản. Đằng nào cũng… chết!!!
Mấy năm nay, các tổ chức kháng chiến có căn cứ
ở Thái Lan cứ quanh quẩn dậm chân ở biên giới Đông Dương, vừa nuôi béo các ông
tướng, bà tướng Thái Lan bằng những đồng tiền thu góp của đồng bào ta ở hải
ngoại, vừa đóng vai trò “giữ dưa” canh đất không lương cho “nước bạn”.
Đây là chiếc thùng không đáy sẽ khiến cho
chúng ta lao tâm khổ trí, hao tài, tổn sức vì nó. Nhưng nếu bỏ đi thì cũng
không đành lòng, vì còn đâu cơ hội mong manh giải phóng quê hương? Và niềm tin
mù mờ kia sẽ lụi tàn theo năm tháng và quên lãng với thời gian; rồi những cám
dỗ xa hoa của đời sống tiện nghi ở nước tạm dung sẽ làm chúng ta không còn
thiết tha với chuyện đấu tranh gian khổ. Một khi ngọn lửa đấu tranh đã thực sự
lụi tàn, chỉ còn là những tro than lạnh lẽo, thì làm sao chúng ta có thể khơi
lại cho bùng cháy dữ dội để thiêu đốt bọn quỷ dữ cộng sản Việt Nam.
Tệ hơn nữa, có những
nhóm người bất lương với các ý đồ đen tối, đã lợi dụng những “chiến khu” ở Thái
Lan, để lừa bịp đồng bào, vơ vét tiền bạc của những người dễ tin - Khủng Bố
những ai dám nói thật, biến kháng chiến thành trò hề, và đẩy lùi giấc mơ phục
quốc ngày một thêm xa!!!
Nguyễn Toàn
Hoàng Cơ Minh (HCM) và Hồ Chí Minh (HCM)
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.