Hồ sơ về Tướng Dương Văn Minh Phạm Văn Hùng Nhận định của Bằng Phong Đặng văn
Âu: Dưới đây là tài liệu về Tướng
Dương văn Minh do phía Hà Nội viết (tất nhiên đề cao Dương văn Minh), nhưng
ít nhất cho ta biết khả năng địch vận của Việt Cộng. Tôi từng nói cuộc xâm
lăng của Việt Cộng không chỉ đơn thuần trên phương diện Quân Sự. Đó là cuộc
chiến tranh toàn diện: Chính trị, Tôn giáo, Tình báo. Việt Cộng có thể dựng một ông Tướng Việt Nam Cộng Hòa –
Dương văn Minh – trở thành một thủ lĩnh đảo chính Việt Nam Cộng Hòa, Quốc
trưởng (năm 1963) và Tổng thống (năm 1975). Việt Cộng cũng có thể dựng một
Tướng Việt Nam Cộng Hòa khác – Hoàng Cơ Minh – trở thành thủ lĩnh Mặt Trận
Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam và sử dụng Mặt Trận ở Hải ngoại giống
như Việt Cộng đã dùng Dương văn Minh ở Sài Gòn. Tôi đã nghi ngờ Kinh Tế Gia
Nguyễn Xuân Nghĩa – cháu ruột của Tổng Bí thư Mười Cúc Nguyễn văn Linh – khi anh
ta được Phạm Dương Hiển , Tham vụ Ngoại giáo VNCH giới thiệu cho Mặt Trận.
Tôi đã cảnh báo cho Đại sứ Bùi Diễm, một lãnh tụ Đại Việt, từng giao du thân
mật với Nguyễn Xuân Nghĩa nhưng ông không quan tâm, bởi vì các chính trị gia
phía VNCH có tính chất tài tử, hơn là chuyên nghiệp. Tướng Hoàng Cơ Minh phải đi vào “Khu Chiến” là để tránh
phải trả lời những câu hỏi của FBI, chứ không phải lên đường cứu nước như
Việt Tân tuyên truyền. Việt Cộng đã sử dụng “blackmail” (chantage) để sai
khiến Việt Tân phải làm việc cho chúng. Tập Thể Chiến sĩ VNCH là ngoại vi của
Việt Tân, để thi hành Nghị Quyết 36, nên Tập Thể chỉ làm công tác của Đại Đội
Chung Sự lo việc kéo cờ lên, hạ cờ xuống, phủ cở, xếp cờ (như nhà báo Sức Mấy
Đinh Từ Thức chế giễu. Trước khi thực hiện bất cứ làm một “phi vụ” gì, Việt Cộng
“điều nghiên” rất kỹ. Ví dụ, muốn tấn công một đồn bót, Việt Cộng lập sa bàn
để thực tập. Khi đưa một nhân vật lên làm Chủ tịch Tập Thể, Việt Cộng cũng
“điều nghiên” đặc tính cá nhân đương sự phải là một nhân vật có tính háo
danh, nhưng hoàn toàn mù tịt về thủ đoạn của Việt Cộng. Đó là lý do tại sao
Tập Thể Chiến Sĩ không làm một tờ báo để lật mặt nạ sự lừa đảo của Mặt Trận
Hoàng Cơ Minh, mà tôi khuyến cáo nhiều lần. |
|||
L.T.S: Hồn Việt số 11 (tháng 5/2008) đã đăng một số ý kiến
về Tướng Dương Văn Minh. Đó là một số ý kiến bước đầu quan trọng, giúp ta tìm
hiểu sâu hơn một sự kiện lịch sử, một con người. Kỳ này, Hồn Việt xin công bố
bản tóm tắt của một công trình nghiên cứu công phu, nhiều tư liệu mới với độ
tin cậy cao của ông Phạm Văn Hùng. Hi vọng rằng, với công trình nghiên cứu
này, sự kiện về Tướng Dương Văn Minh sẽ được sáng tỏ thêm. Nó chứng minh thêm
tầm vóc của ngày 30/4 lịch sử dưới sự lãnh đạo toàn diện, sâu sát, kiên trì…
của Bộ Chỉ huy tối cao đứng đầu là Lê Duẩn và của những người trực tiếp tham
gia ở chiến trường miền Nam, của Trung Ương Cục miền Nam. Nó cũng chứng tỏ sự
phối hợp tuyệt đẹp giữa quân sự - chính trị - địch vận… trong cuộc chiến
tranh giải phóng. Nó nói lên sự phong phú vô tận của cuộc sống, của cuộc đấu
tranh cho độc lập dân tộc của lòng yêu nước Việt Nam… Chúng tôi mong nhận được thêm nhiều ý kiến. (HV)
THÂN THẾ VÀ GIA ĐÌNH - Ông Dương Văn Minh sinh năm 1916 ở tỉnh Mỹ Tho. Cha là
ông Dương Văn Huề, khi đi học mướn lấy tên là Dương Văn Mau (tên của người bà
con), làm thầy giáo, sau làm tri phủ, rồi đốc phủ sứ (hàm). Ông Dương Văn Huề và bà Nguyễn Thị Kỹ có bảy người con:
bốn trai, ba gái. Ông Minh là con cả. Dương Thanh Nhựt là con trai kế, có
tham gia hoạt động cách mạng từ trước Cách mạng tháng Tám (năm 1944) và suốt
hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, là đại tá Quân đội nhân dân Việt
Nam. Dương Thanh Sơn, em trai thứ năm, là sĩ quan chế độ cũ. Gia đình ông Minh theo đạo Phật, lễ giáo, nề nếp. - Năm 1940, Dương Văn Minh học trường đào tạo hạ sĩ quan
và sĩ quan dự bị của Pháp. Năm 1942 vào quân đội Pháp. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Dương Văn Minh tham gia
lực lượng vũ trang cách mạng chống Pháp xâm lược. Pháp trở lại, gia đình ông
Minh tản cư về Chợ Đệm (Tân An). Lần đó, ông về thăm nhà, đơn vị rút đi, ông
bị kẹt lại chưa tìm được đơn vị thì bị Tây bắt, buộc ông trở lại làm việc cho
quân đội Pháp. Năm 1946, Dương Văn Minh là thiếu úy, đại đội phó quân đội
Pháp. Lần lượt lên đến cấp tá, rồi qua Pháp học trường võ bị, là một trong
những sĩ quan đầu tiên của quân đội “Việt Nam Cộng Hoà”. Ông Minh cũng theo đạo Phật, nhân từ, thương người. Sợ sát
sinh, sợ phải giết người. Thấy ai bị nạn thì ra tay cứu như can thiệp cho em
trai bà Bùi Thị Mè (1) là thiếu tá chế độ cũ bị tình nghi hoạt động cho “Việt
Cộng” được thả ra; giúp ông Nguyễn Minh Triết (Bảy Trung), cán bộ của ta và
là em bạn dì ruột bị địch bắt giam ở nhà lao Phú Lợi, được ra tù… - Ông Minh là người rất tự trọng. Sau ngày 30/4/1975, ông
được về nhà (98 đường Hồng Thập Tự, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai, Quận
3) sống với tư cách một “công dân của một nước độc lập” (2). Đời sống khó
khăn, ông lại bị bệnh tiểu đường, bị đau dạ dày. Có lúc lãnh đạo Thành phố
(đồng chí Võ Văn Kiệt) nhờ bà Bùi Thị Mè gợi ý khéo là Đảng và chính quyền
thành phố muốn hỗ trợ ông trong cuộc sống. Nhưng ông Minh từ chối với lý do:
“Các anh các chị sống được thì tôi cũng sống được nếu chưa quen thì phải tập
lại cho quen”. Năm 1983, ông Minh được Chính phủ ta chấp thuận để ông
sang Pháp trị bệnh và thăm con. Toà Tổng Lãnh sự Pháp ở Thành phố Hồ Chí Minh
đề nghị Bộ Ngoại giao Pháp giúp ông Minh vé máy bay và tiền gửi hành lý nhưng
ông Minh từ chối, nói rằng “đã có Chính phủ Việt Nam lo rồi”. Khi đi, ông Minh chỉ xin mang theo một ít đồ cổ trong nhà.
Sang Pháp, ông không nhờ vả gì Chính phủ Pháp, không xin trợ cấp xã hội Pháp. QUÁ TRÌNH BINH ĐỊCH VẬN ĐỐI VỚI
TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH Công tác binh địch vận đối với tướng Dương Văn Minh bắt
đầu từ năm 1962, với nhiều lực lượng, nhiều ban ngành tham gia: Binh vận
Trung Ương Cục, Tình báo, An ninh T4 (Sài Gòn - Gia Định), Trí vận… 1/ Ban binh vận Trung Ương Cục
miền Nam Năm 1960, theo yêu cầu của Ban binh vận Xứ ủy Nam bộ (sau
này là Trung Ương Cục miền Nam), đồng chí Võ Văn Thời, Cục trưởng Cục địch
vận Tổng Cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam đề nghị và được cấp trên
đồng ý điều động đồng chí Dương Thanh Nhựt (3) về Cục để giao nhiệm vụ về
miền Nam vận động Dương Văn Minh. Đồng chí Nhựt được đặt bí danh là Mười Ty.
Cuối tháng 12/1960, đồng chí Mười Ty lên đường. Tháng 8/1962, đồng chí Mười Ty móc được với gia đình,
trước hết là với ông Nguyễn Văn Di, cậu ruột; qua cậu, móc vợ là Sử Thị
Hương, nhắn vợ về thăm mẹ và tìm hiểu thái độ của anh hai Dương Văn Minh. Sau
đó Mười Ty thăm em trai là Dương Thanh Sơn, sĩ quan quân đội Sài Gòn và em
thứ tám là Dương Thu Vân. Thấy tình hình thuận lợi, đồng chí Mười Ty hướng dẫn cán
bộ mật đem ý kiến của lãnh đạo trao đổi với Dương Văn Minh về việc đảo chính
Chính phủ Ngô Đình Diệm. Trong lúc Tướng Minh đang bực tức Ngô Đình Diệm độc
tài, gia đình trị, phủ nhận công lao của mình (tảo thanh Bình Xuyên và các
giáo phái Hoà Hảo). Tướng Minh hứa sẽ tìm cách làm. Ngày 01/11/1963, Trung tướng Dương Văn Minh nhân danh Chủ
tịch Hội đồng quân nhân cách mạng phát lệnh đảo chính Chính phủ Ngô Đình Diệm
và lên làm Quốc trưởng Việt Nam Cộng Hòa lần thứ nhất. Đồng chí Mười Ty nắm
được ý định Tướng Minh chuẩn bị đảo chính Diệm và có báo cáo về Ban binh vận
Trung Ương Cục. Sau cuộc đảo chính Ngô Đình Diệm một thời gian, đồng chí
Mười Ty có vào nhà Dương Văn Minh (98 Hồng Thập Tự, nay là đường Nguyễn Thị
Minh Khai), sau đó qua nhà em là Dương Thanh Sơn ở mười ngày. Qua nhiều lần
gặp và trao đổi với Dương Văn Minh, đồng chí Mười Ty cho rằng Tướng Minh
trước đây mơ hồ về Mỹ là tên xâm lược, nay thì hết tranh cãi về điều này,
nhưng vẫn còn cho là Mỹ có giúp đỡ miền Nam. Tướng
Minh hứa hủy bỏ ấp chiến lược, cho nhân dân về nhà cũ với ruộng vườn, mồ mả
ông bà. Trong thời gian làm Quốc trưởng lần thứ nhất. Dương Văn
Minh có một số hành động tiến bộ có lợi cho cách mạng: + Quyết định hủy bỏ 16.000 ấp chiến lược. Đại sứ Mỹ Cabot
Lodge hỏi Dương Văn Minh vì sao làm thế? Ông trả lời, đại ý: Người Việt Nam
có phong tục tập quán riêng, không người nào muốn xa rời mảnh đất đã gắn bó
đời mình và mồ mả ông cha. Dồn dân vào ấp chiến lược là chủ trương sai, vì lẽ
đó tôi giải tán ấp chiến lược để người dân trở về quê cũ của mình. + Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Mc Namara và Tướng Harkin yêu
cầu Quốc trưởng Dương Văn Minh để cho Hoa Kỳ ném bom ra miền Bắc, không ném ồ
ạt mà ném bom nổ chậm trên đê sông Hồng. Miền Bắc sẽ bị lũ lụt mất mùa, người
dân sẽ đói… Dương Văn Minh lắc đầu từ chối. + Tháng 1/1964, Đại sứ Cabot Lodge yêu cầu Quốc trưởng
Dương Văn Minh nghiên cứu, chuẩn y và thực hiện kế hoạch 34A (hoạt động gián
điệp, biệt kích chống miền Bắc). Dương Văn Minh không trả lời. + Theo lời kêu gọi của Mặt trận dân tộc giải phóng miền
Nam (4) Dương Văn Minh tỏ ý muốn thương lượng để tuyển cử tự do, thực hiện
một chế độ trung lập, lập Chính phủ liên hiệp. Nhưng Mỹ cự tuyệt hòa đàm,
chống mọi xu hướng trung lập. - Do những chủ trương và hành động của Dương Văn Minh
không theo đúng ý đồ “Bắc tiến” của Mỹ, theo chỉ thị của Tổng thống Mỹ
Johnson, cuối tháng 01/1964, chính quyền Mỹ đã đưa Nguyễn Khánh lên làm Chủ
tịch Hội đồng quân nhân cách mạng kiêm Thủ tướng Chính phủ Cộng Hòa Việt Nam
bằng một cuộc đảo chính. Nguyễn Khánh tuyên bố: “Tôi đảo chánh Dương Văn Minh
để cứu đất nước này khỏi rơi vào tay Cộng sản”. Mỹ thấy Dương Văn Minh có hậu thuẫn ở miền Nam, nhưng khó
điều khiển nên chỉ thị cho Chính quyền Sài Gòn phong Dương Văn Minh làm đại
tướng và cử làm đại sứ lưu động ở Đài Loan. Mỹ mời ông Minh qua Mỹ một thời
gian rồi cho lưu vong ở Thái Lan (từ đầu năm 1965) có sự giám sát của CIA,
làm con bài dự trữ. Cuối năm 1967, theo chỉ đạo của đồng chí Mười Cúc (Nguyễn
Văn Linh, Phó Bí thư Trung Ương Cục miền Nam) và Ban binh vận Trung Ương Cục,
đồng chí Mười Ty có chuyến qua Pháp, ở nhà em rể là Charlot để móc người em
gái thứ 8 là Dương Thu Vân qua Pháp. Có thời gian Mười Ty ở nhà Dương Minh
Đức (con trai Dương Văn Minh). Được biết, khi người em gái thứ 6 Dương Thu Hà
bị ung thư chết, Dương Văn Minh có qua Pháp dự đám tang em gái, sau đó ở lại
Pháp hơi lâu, có ý chờ tin của Mười Ty. Nhưng vì bọn CIA bảo trung tá Đẩu (sĩ
quan tùy viên của Tướng Minh) kêu ông Minh về Thái Lan, nên không ở lâu hơn
được nữa. Khi chị Dương Thu Vân qua Paris gặp Mười Ty cho hay là ông
Minh không thể qua Pháp được nữa, thì Mười Ty mới chuyển kế hoạch qua em
(Dương Thu Vân) và cháu (Dương Minh Đức) truyền đạt ý kiến của cấp trên cho
Dương Văn Minh. Sau đó Đức báo lại ý kiến của cha anh với Mười Ty như sau:
“Lập Chính phủ ba thành phần là khó lắm, cần đánh cho văng Thiệu, Mỹ phải rút
đi là hết chiến tranh. Tôi có ra làm chính phủ ba thành phần khi bầu cử thì
ông Thọ (Luật sư Nguyễn Hữu Thọ) cũng thắng cử, tôi có thất cử cũng không
nghĩa lý gì, miễn có lợi cho đất nước là hơn”. Dương Minh Đức nói thêm: Ba
cháu không còn lực lượng, không biết làm chính trị, không giỏi bằng ông Thọ;
ra ngoài (ra khu) lúc này là không có lợi, ở trong này khi cần có lợi hơn… Sau đó, đồng chí Mười Ty về Hà Nội, được đồng chí Lê Duẩn
gặp và mời cơm (với đồng chí Võ Văn Thời). Sau khi nghe đồng chí Mười Ty báo
cáo đầy đủ chuyến đi công tác ở Pháp, đồng chí Lê Duẩn khen và nói: “Dương
Văn Minh trả lời như vậy là thành thật, nói như vậy là làm được, chứ hứa hết
có khi không làm được…” Cuối năm 1970,… theo chỉ đạo của Trung Ương và Trung Ương
Cục miền Nam, Ban binh vận Trung Ương Cục tìm một người khác, để tiếp cận vận
động Dương Văn Minh. Đó là chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, cơ sở của ta trong sĩ
quan là bạn bè và thầy trò có thể tiếp cận được với Dương Văn Minh. Đồng chí
Nguyễn Tấn Thành (tức Tám Vô Tư), bác của Nguyễn Hữu Hạnh, được Ban binh vận
Trung Ương Cục giao nhiệm vụ trực tiếp nắm và bồi dưỡng cho Nguyễn Hữu Hạnh. Tháng 3 và 4/1975, đồng chí Tám Vô Tư thường gặp ông
Nguyễn Hữu Hạnh. Sau khi Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đồng chí Tám Vô Tư gợi ý
ông Hạnh nên tiếp cận và vận động Dương Văn Minh nếu lên làm Tổng thống thì
tìm cách kết thúc cuộc chiến có lợi cho nhân dân. Khi được tin ông Dương Văn Minh lên làm Tổng thống, ngày
28/4/1975, từ Cần Thơ, ông Nguyễn Hữu Hạnh bằng mọi cách, vượt mọi khó khăn
lên Sài Gòn gặp Dương Văn Minh và được ông giao làm phụ tá Tổng tham mưu
trưởng, thay Tổng tham mưu trưởng ở bên cạnh ông, sau đó là Quyền Tổng tham
mưu trưởng. Với các cương vị này, ông Hạnh đã góp phần quan trọng vào việc
thực hiện lệnh của Tổng thống Dương Văn Minh làm cho quân đội Sài Gòn “án
binh bất động”, tan rã tại chỗ, không nổ súng và thúc đẩy Chính phủ Dương Văn
Minh sớm bàn giao chính quyền cho cách mạng. 2/ Thâm nhập vào “nhóm Dương Văn
Minh” Tháng 9/1972, Ban An ninh T4 (Thành phố Sài Gòn - Gia
Định) thành lập Cụm điệp báo mới, bí số là A10, với nhiệm vụ xây dựng lực
lượng điệp báo bí mật trong một số đối tượng, trong đó có lực lượng thứ ba,
đặc biệt là “nhóm Dương Văn Minh”… (các thành viên bộ tham mưu nhóm Dương Văn
Minh, ban biên tập bản tin nội bộ nhóm Dương Văn Minh, thư ký tòa soạn báo
Điện Tín, báo Đại dân tộc…). Đầu năm 1975, đồng chí Trần Quốc Hương (Mười Hương),
Trưởng Ban An ninh T4, chỉ đạo A10 tìm cách thâm nhập vào lực lượng thứ ba và
nhóm Dương Văn Minh để tác động, vận động lực lượng này chống đối, cô lập,
chia rẽ chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Thời gian này, Cụm điệp báo A10 tiếp cận, bám sát “nhóm
Dương Văn Minh”, có lúc họa sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành) ở luôn trong nhà Dương Văn
Minh; tham gia viết và in tuyên cáo “chống Chính phủ Thiệu không có Thiệu”,
đòi Trần Văn Hương từ chức (Tổng thống). Ngày 01/3 và cuối tháng 3/1975, đồng chí Huỳnh Bá Thành (lần
sau có thêm các đồng chí Trần Thiếu Bảo, Huỳnh Huề…) vào căn cứ báo cáo với
đồng chí Mai Chí Thọ (Bí thư thành ủy), Trần Thanh Vân (Phó trưởng Ban An
ninh T4). Đồng chí Mai Chí Thọ chỉ đạo: “…Phải bằng mọi cách để Dương Văn
Minh thay Nguyễn Văn Thiệu, rồi giao chính quyền cho cách mạng. Đó là chủ
trương của Đảng nhằm tránh đổ máu, tránh tổn thất cho nhân dân”. 3/ Tác động vào Chính phủ Dương
Văn Minh Cụm điệp báo VĐ2 thuộc phòng tình báo chiến lược M22, cục
tham mưu Miền cũng có chỉ đạo vận động tác động nội các Dương Văn Minh đầu
hàng thông qua kỹ sư Tô Văn Cang trong những ngày cuối cùng của chế độ Sài
Gòn. Theo ông Tô Văn Cang, sáng ngày 28/4/1975, ông Cang đến gặp Đại tá
Nguyễn Văn Khiêm (Sáu Trí) ở nhà ông Ba Lễ (cơ sở tình báo) hẻm đường Triệu Đà,
Sài Gòn, để báo ý kiến của ông Nguyễn Văn Diệp (trong Chính phủ Dương Văn
Minh) muốn tìm gặp đại diện Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam để
xin ý kiến xử trí tình hình Sài Gòn. Đồng chí Sáu Trí phân tích tình hình và
“khuyên Chính phủ Dương Văn Minh chấp nhận đầu hàng vô điều kiện”. Ý kiến này
được ông Cang phản ánh lại cho ông Diệp và sau đó ông Diệp có báo cáo lại cho
bộ ba Dương Văn Minh – Nguyễn Văn Huyền – Vũ Văn Mẫu. 4/ Xây dựng lực lượng thứ ba ở đô
thị Sau hiệp định Paris (1973), Hội nghị lần thứ 21 Ban chấp
hành Trung Ương (tháng 7/1973) đề ra nhiệm vụ: “Xây dựng lực lượng thứ ba ở
đô thị”; “mở rộng hơn nữa Mặt trận dân tộc Giải phóng gồm mọi giai cấp, tôn
giáo, lực lượng hòa bình, độc lập, dân chủ ở miền Nam và Việt kiều ở nước ngoài”.
Năm 1974, theo chỉ đạo của đồng chí Mười Cúc (Nguyễn Văn
Linh), Phó Bí thư Trung Ương Cục miền Nam, đồng chí Quốc Hương (Mười Hương),
Ủy viên Thường vụ, Trưởng Ban An ninh T4 đã chọn một số thanh niên, sinh viên
cài vào hoạt động trong lực lượng thứ ba. Trên thực tế thì lực lượng ta đã hình thành trước khi có
hiệp định Paris qua tổ chức “Lực lượng quốc gia tiến bộ” do luật sư Trần Ngọc
Liễng và nhà tư sản dân tộc (ngành vật liệu xây dựng) Phan Văn Mỹ thành lập
tháng 6/1969 với mục tiêu là: đòi các lực lượng ngoại nhập (Mỹ và đồng minh)
phải rút khỏi miền Nam, thành lập chính phủ hòa giải dân tộc. Sau đó, lợi
dụng lúc Thiệu đi nước ngoài, luật sư Trần Ngọc Liễng lập “Lực lượng hoà giải
dân tộc”. Sau hiệp định Paris, tháng 02/1974, nhóm luật sư Trần Ngọc Liễng
lập “Tổ chức nhân dân đòi thi hành hiệp định Paris”, xác định mình là lực
lượng thứ ba, mục tiêu chính là đòi thi hành hiệp định Paris, Mỹ rút quân,
thành lập Chính phủ hoà giải dân tộc. Thành viên của “nhóm Dương Văn Minh” gồm một số trí thức,
dân biểu đối lập, ký giả, tướng lĩnh Hằng tuần, nhóm họp bàn về tình hình
thời sự chính trị (lúc tình hình sôi động mỗi tuần họp hai lần). Cạnh tướng
Dương Văn Minh có Văn phòng báo chí. Lúc báo Điện tín bị đóng cửa, “nhóm
Dương Văn Minh” ra bản tin bán công khai để phát cho các tổ chức, đoàn thể,
báo chí trong và ngoài nước. - Theo ông Lý Quý Chung (Hồi ký), tuần lễ đầu tháng
4/1975, tướng Dương Văn Minh và “nhóm Dương Văn Minh” đã họp tại Dinh Hoa Lan
(nhà ông Minh) bàn và quyết định công bố ý định thay thế Nguyễn Văn Thiệu để
góp phần chấm dứt chiến tranh. 5/ Phối hợp phong trào đấu tranh
chính trị của nhân dân Sài Gòn Với các khẩu hiệu “đuổi Mỹ, lật Thiệu”, đòi Nguyễn Văn
Thiệu từ chức, đòi thi hình hiệp định Paris, hòa bình, chấm dứt chiến tranh,
đòi dân chủ, cải thiện dân sinh… các cuộc xuống đường diễn ra liên tục, mạnh
mẽ thu hút hàng ngàn, hàng vạn người. Như cuộc xuống đường của 200 ký giả Sài
Gòn ngày 10/10/1974, ngày “ký giả đi ăn mày” lôi cuốn gần hai vạn quần chúng
tham gia đã có tiếng vang lớn cả trong và ngoài nước. Cuộc tuần hành ngày
20/4/1974 của hàng vạn công nhân lao động, sinh viên, học sinh, trí thức,
thương phế binh… đòi Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đòi thi hành hiệp định Paris,
đòi hòa bình, cơm áo, chống sa thải, chống thuế VAT…, là cuộc đấu tranh lớn
nhất từ sau hiệp định Paris. MỸ, PHÁP VỚI TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH * Mỹ: Năm 1971, Mỹ yêu cầu Dương Văn Minh ra tranh cử Tổng
thống với Nguyễn Văn Thiệu để tỏ ra chế độ Cộng hòa miền Nam có dân chủ,
nhưng phải thất cử để trở thành lãnh tụ của phe đối lập trong nghị viện.
Tướng Dương Văn Minh từ chối. Đại sứ Mỹ Bunker còn trắng trợn hỏi ông Minh
cần bao nhiêu đô-la cho cuộc tranh cử. Ông Minh cố nén giận, nhưng giữ lịch
sự, đưa tay chỉ đại sứ Mỹ về phía cửa phòng (không tiếp đại sứ Mỹ nữa). Cuộc
bầu cử đó, Tướng Dương Văn Minh có ra ứng cử, nhưng đến giờ chót quyết định
rút lui, chỉ còn Nguyễn Văn Thiệu trở thành ứng cử viên Tổng thống “độc
diễn”, làm bẽ mặt Mỹ – Thiệu. Sau khi Thiệu từ chức, Phó tổng thống Trần Văn Hương lên
thay tổng thống, tuyên bố “cương quyết tử thủ dù phải hi sinh đến nắm xương
tàn”, đã bị nhân dân và báo chí Sài Gòn đấu tranh đòi Chính phủ Trần Văn
Hương từ chức ngay lập tức. Trần Văn Hương trì hoãn việc giao quyền cho Dương
Văn Minh, mãi đến ngày 26/4/1975, lưỡng viện Sài Gòn đã bầu Dương Văn Minh
làm Tổng thống Việt Nam Cộng hòa với 147/151 phiếu. * Pháp: Theo đồng chí Phan Nhẫn, ngày 27 (hoặc 28/4/1975),
Bộ Ngoại giao Pháp gặp đồng chí Phạm Văn Ba (Giám đốc Trung tâm thông tin
Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam) gợi ý Chính phủ Cách mạng lâm
thời nên đi vào đàm phán. Lúc đó, Pháp hi vọng “giải pháp Dương Văn Minh” và
khả năng thương lượng với Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam. Theo chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh và ông Lý Quý Chung, sáng
ngày 30/4/1975, tướng tình báo Pháp Vanuxem đến Phủ thủ tướng (số 7 Thống
Nhất, nay là đường Lê Duẩn) gặp Tổng thống Dương Văn Minh, gợi ý ông Minh nên
kêu gọi Trung Quốc can thiệp để cứu miền Nam không rơi vào tay Cộng sản Bắc
Việt. Ông Minh từ chối, nói rằng: “Tôi đã từng làm tay sai cho Pháp rồi cho
Mỹ, đã quá đủ rồi. Tôi không thể tiếp tục làm tay sai cho Trung Quốc”. TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH VỚI 3 NGÀY
LÀM TỔNG THỐNG 15 giờ chiều ngày 28/4/1975, Tướng Minh làm lễ nhậm chức
Tổng thống, cử Nguyễn Văn Huyền làm Phó tổng thống, Vũ Văn Mẫu làm Thủ tướng.
Tổng thống Dương Văn Minh cử một số Bộ trưởng và người phụ
trách quân đội, cảnh sát, trong đó có đảng viên và cơ sở của ta là: Luật sư
Triệu Quốc Mạnh, Giám đốc Nha cảnh sát đô thành, và chuẩn tướng Nguyễn Hữu
Hạnh, phụ tá Tổng tham mưu trưởng sau làm quyền Tổng tham mưu trưởng. Về Bộ quốc phòng, Tổng thống Dương Văn Minh chỉ định Giáo
sư Bùi Tường Huân, Giáo sư Đại học Huế (không phải tướng tá) làm Bộ Trưởng.
(Theo ông Lý Quý Chung, việc Tổng thống Dương Văn Minh chỉ định ông Bùi Tường
Huân làm Bộ trưởng quốc phòng để chứng tỏ chính phủ này không muốn chiến
tranh). 17 giờ ngày 28/4/1975, phi đội 5 chiếc A37 của Nguyễn
Thành Trung ném bom sân bay Tân Sơn Nhất. Theo ông Hồ Ngọc Nhuận (Hồi ký), tối hôm đó, Tướng Minh
giao cho ông chuẩn bị chiếm đài phát thanh (đề phòng Nguyễn Cao Kỳ làm đảo
chính). Đêm 28/4, Tướng Dương Văn Minh và gia đình dời đến ở nhà
một người bạn của tướng Mai Hữu Xuân ở đường Phùng Khắc Khoan do sợ Nguyễn
Cao Kỳ ném bom dinh Hoa Lan (nhà ông Minh). Theo cựu dân biểu Dương Văn Ba (Hồi ký), đêm 28/4/1975,
hai đại tá phi công lái hai máy bay trực thăng phục vụ tổng thống đậu trên
nóc dinh Độc Lập, gặp Tổng thống Dương Văn Minh đề nghị đưa Tổng thống và tất
cả những người trong bộ tham mưu tổng thống và gia đình bay ra Đệ Thất Hạm
Đội. Ông Minh trả lời: “Hai em có thể yên lòng lái máy bay ra Đệ Thất Hạm
Đội, bất cứ ai có mặt ở đây muốn đi theo thì có thể ra đi. Phần tôi, tôi nhất
quyết không đào ngũ bỏ chạy; không thể nào bỏ dân chúng Sài Gòn, không thể
nào bỏ miền Nam như con rắn mất đầu”. Ngày 29/4/1975 Tổng thống Dương Văn Minh, Phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền
và Thủ tướng Vũ Văn Mẫu bàn và ra lệnh cho Giám đốc Nha cảnh sát đô thành
Triệu Quốc Mạnh thả tù binh chính trị; gửi công văn yêu cầu Đại sứ Mỹ Martin
cho cơ quan Viện trợ quân sự Mỹ (DAO) rời khỏi Việt Nam trong vòng 24 giờ để
giải quyết hòa bình ở Việt Nam. Đến 16 giờ chiều ngày 29/4, đã thực hiện xong việc trả tù
binh chính trị (trong đó có Huỳnh Tấn Mẫm). Chỉ huy các ban và cảnh sát 18
quận, huyện đã tan rã (trừ bộ phận biệt phái). Tổng thống Dương Văn Minh chỉ thị không được di chuyển
quân, không được phá cầu. Dựa vào chỉ thị trên, chiều ngày 29/4/1975, phụ tá
Tổng tham mưu trưởng Nguyễn Hữu Hạnh đã ra lệnh cho các đơn vị không được phá
cầu. Đơn vị nào muốn phá cầu phải có lệnh của Bộ Tổng tham mưu. Sau đó, khoảng 15 giờ, phái đoàn do Luật sư Trần Ngọc
Liễng cầm đầu có Linh mục Chân Tín, Giáo sư Châu Tâm Luân vào Trại David,
được đồng chí Võ Đông Giang, Phó trưởng phái đoàn ta tiếp. Ông Liễng đã thông
báo với phái đoàn ta về chủ trương “không chống cự” của Tổng thống Dương Văn
Minh, mà ông coi là niềm vui sướng nhất trong đời ông, vì đã thông báo cho
bên trong biết “Sài Gòn không chống cự” vào giờ chót của cuộc chiến tranh.
Theo Luật sư Liễng, Tổng thống Dương Văn Minh đã chấp nhận đầu hàng từ buổi trưa
hôm đó (ngày 29/4/1975). Từ chiều và tối ngày 29/4, cũng có một số người tác động
Tổng thống Dương Văn Minh hướng “Thành phố để ngõ”, đầu hàng. Như ông Lý Quý
Chung, họa sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành). Thông qua ông Phan Xuân Huy và ông Đoàn
Mai, thượng tọa Thích Trí Quang nói điện thoại trực tiếp với Tổng thống Dương
Văn Minh: “còn chờ gì nữa mà không đầu hàng”. Ngày 30/4/1975 - 6 giờ, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh quyền Tổng tham mưu
trưởng (tướng Vĩnh Lộc, Tổng tham mưu trưởng đã chuồn) và tướng Nguyễn Hữu Có
đến báo cáo với Tổng thống Dương Văn Minh về toàn bộ tình hình quân sự. Sau
đó, ông Minh (cùng các ông Hạnh và Có) đến Phủ Thủ tướng (số 7 Thống nhất,
nay là đường Lê Duẩn). Tổng thống Dương Văn Minh họp với Phó Tổng thống Nguyễn
Văn Huyền, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu và một số người trong nội các “nhóm Dương Văn
Minh”, bàn và quyết định không nổ súng và giao chính quyền cho Chính phủ Cách
mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam. Thủ tướng Vũ Văn Mẫu soạn bản thảo tuyên bố
này. - 9 giờ, Tổng thống Dương Văn Minh đọc vào máy ghi âm. Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh đề nghị và được Tổng thống
Dương Văn Minh đồng ý có nhật lệnh cho quân đội. Ông Hạnh soạn thảo nhật lệnh
này. Đồng thời tướng Nguyễn Hữu Hạnh gọi điện thoại cho tướng Nguyễn Khoa
Nam, Tư lệnh Quân khu 4 yêu cầu cố gắng thi hành lệnh của Tổng thống trên đài
phát thanh. 9 giờ 30: Đài phát thanh phát tuyên bố của Tổng thống
Dương Văn Minh: “Đường lối của chúng tôi là hòa giải và hòa hợp dân tộc”;
“yêu cầu tất cả anh em chiến sĩ Cộng Hòa ngưng nổ súng, và ở đâu thì ở đó”;
“Chúng tôi chờ gặp Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam để
thảo luận về lễ bàn giao chính quyền trong vòng trật tự, tránh sự đổ máu vô
ích cho đồng bào”. Sau đó, cả các ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền, Vũ
Văn Mẫu cùng nội các đến Dinh Độc Lập để chờ bàn giao chính quyền cho cách
mạng. Sau khi đọc tuyên bố “đầu hàng” xong, Tướng Dương Văn Minh
nói với mọi người (trong Chính phủ): “Mọi việc coi như đã xong. Bây giờ ai
muốn đi hay ở thì tùy”. 11 giờ 30, xe tăng quân giải phóng vào Đinh Độc Lập. Xe
quân giải phóng đưa ông Dương Văn Minh và ông Vũ Văn Mẫu đến đài phát thanh
để đọc tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. KẾT LUẬN 1/ Tướng Dương Văn Minh là người có tinh thần dân tộc, yêu
nước. Từ chỗ lúc đầu còn mơ hồ về việc Mỹ xâm lược miền Nam, cho rằng Mỹ có
giúp đỡ miền Nam, dần dần tỏ thái độ chống Mỹ: chống Mỹ đưa quân viễn chinh
Mỹ và đồng minh vào miền Nam, kéo dài và mở rộng chiến tranh, muốn có hòa
bình, độc lập và hòa hợp dân tộc. 2/ Theo ông Nguyễn Hữu Hạnh và ông Lý Quý Chung, Tướng
Dương Văn Minh lên làm Tổng thống không có ý để thương thuyết với cách mạng
vì đã thấy không còn khả năng thương thuyết; cũng không có ý để tiếp tục
chiến tranh vì lâu nay ông Minh chủ trương hoà bình, chấm dứt chiến tranh.
Điều này thể hiện rõ ở Tổng thống Dương Văn Minh chỉ định hai cơ sở của ta
(chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh và luật sư Triệu Quốc Mạnh) nắm hai lực lượng vũ
trang: quân đội và cảnh sát; cử một người dân sự (giáo sư Bùi Tường Huân) làm
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; chưa đầy một ngày sau khi nhậm chức thì ngày
29/4/1975, đã ra lệnh thả tù chính trị, đuổi phái đoàn DAO của Mỹ; không di
chuyển quân, không phá cầu v.v.. 3/- Trong điều kiện cuộc tổng tiến công quân sự của các
binh đoàn chủ lực kết hợp với cuộc tiến công và nổi dậy của các lực lượng vũ
trang và quần chúng ở thành phố Sài Gòn – Gia Định đã tạo sức ép quân sự lớn;
công tác vận động, binh địch vận của nhiều lực lượng ta với Tướng Dương Văn
Minh; được sự đồng tình, tác động tích cực của những người chủ yếu trong nội
các, lực lượng thứ ba và “nhóm Dương Văn Minh”; Tổng thống Dương Văn Minh đã
quyết định “không chống cự”, tuyên bố “ngưng nổ súng và ở đâu ở đó vào 9g30
(sau đó tuyên bố “đầu hàng vô điều kiện” vào 11g30) ngày 30/4/1975 là hành
động thức thời, làm giảm ý chí đề kháng của đại bộ phận quân đội Sài Gòn vào
những giờ chót của cuộc chiến tranh, tạo thuận lợi cho quân giải phóng tiến
nhanh vào giải phóng hoàn toàn thành phố Sài Gòn còn nguyên vẹn và không đổ
máu. Nhiều thành phố và thị xã khác cũng được giải phóng nguyên vẹn, ít tổn
thất. Chúng ta biết rõ giành được thắng lợi to lớn này, cuộc tổng tiến công
của các quân đoàn kết hợp với các cuộc tiến công và nổi dậy của lực lượng vũ
trang và quần chúng địa phương đóng vai trò quyết định. Tuy nhiên, công bằng
mà nói, hành động thức thời của Tổng thống Dương Văn Minh và nội các của ông
đã góp phần làm cuộc chiến kết thúc sớm, tránh đổ nhiều xương máu của binh sĩ
và nhân dân, thành phố Sài Gòn và nhiều đô thị còn nguyên vẹn. Đó là nghĩa cử
yêu nước, thương dân của ông Dương Văn Minh. Tp. Hồ Chí Minh, ngày 30/10/2004 ____________ (1) Nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế – xã hội – thương binh Chính
phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam. (2) Phát biểu của ông Dương Văn Minh trong cuộc Thượng
tướng Trần Văn Trà, Chủ tịch Ủy ban quân quản TP. Hồ Chí Minh tuyên bố trả
quyền công dân cho toàn bộ viên chức Chính phủ “Việt Nam Cộng Hoà”. (3) Bộ đội Nam bộ tập kết ra Bắc, ở Sư đoàn 330. Sau đó chuyển
ra nông trường quân đội. (4) Sách “Gởi người đang sống” (tr 334-335) của Thượng
tướng Trần Văn Trà. |
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.