ĐỊNH MỆNH AN BÀI
BẰNG PHONG ĐẶNG VĂN ÂU
Ban biên tập phụ
trách thực hiện cuốn kỷ yếu để đánh dấu 50 năm đời quân ngũ được tổ chức vào
ngày 3 tháng 7 năm 2012 này, đề ra yêu cầu mỗi khóa sinh phải đóng góp một bản
tiểu sử. Là một người không có địa vị hay thành tích gì đáng kể để viết tiểu sử
của mình, tôi chỉ mạo muội tâm tình với bằng hữu đôi chút về “cái tôi đáng
ghét” của mình mà thôi, với ước mong những người bạn cùng khóa niệm tình chia sẻ.
Tôi ra đời vào
năm Canh Thìn, cầm tinh con rồng, cho nên tôi mơ giấc mơ hải hồ, được bay cao
bay xa như ông Saint Exurpéry (tác giả cuốn Vol de Nuit và cuốn Le Petit
Prince). Sở dĩ tôi thỏa được giấc mộng của mình là vì nhờ Hoa Kỳ tham gia cuộc
chiến Việt Nam, họ cần đào tạo những phi công cho chiến trường. Nếu không, giấc
mơ của tôi sẽ không thành hiện thực, vì tôi chẳng thể nào có tiền để được huấn
luyện trở thành phi công. Sở phí đào tạo một người có thể lái máy bay tốn kém rất
lớn.
Có hôm tôi hỏi Mẹ
tôi, tại sao con tuổi Thìn mà trên giấy khai sinh của con lại ghi năm 1942? Mẹ
tôi đáp: “Thời buổi chiến tranh, giấy tờ thất lạc, lại chạy tản cư liên miên, Mẹ
phải làm tờ “thế vì khai sinh” và khai trụt tuổi cho con thì nhà trường mới nhận
con vào học”. À ra thế! Thảo nào số quân của tôi là 62/600356, lẽ ra phải bắt đầu
số 60 để chỉ những lớp người sinh năm 1940. Căn cứ trên tờ “thế vì khai sinh”,
chánh quán của tôi là làng Nho Lâm, phủ Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Trú quán là
làng Phổ Tây, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên.
Thầy (Bố) tôi là
bác sĩ, được đổi đi công tác nhiều tỉnh khác nhau, nên tôi có thể bắt chước người
giúp việc trong nhà để nói các giọng Bắc, Nam, Trung.
Năm 1945, Thầy tôi qua đời
vì căn bệnh ruột dư
(Appendicitis) được bác sĩ giáo sư Huard của
trường Đại Học Y Khoa Hà Nội - một danh y thời bấy giờ - giải phẫu. Không may
Thầy tôi bị nhiễm trùng mà không có thuốc trụ sinh vì cuộc chiến tranh giữa
Đồng Minh và Quân đội Nhật hoàng xảy ra. Mẹ tôi lúc bấy giờ mới 38 tuổi, khá
đẹp, mà nhất quyết ở vậy thờ chồng nuôi con, chứ không chịu bước thêm một bước
nữa, mặc dầu có nhiều đàn ông xứng đáng đến ngỏ lời cầu hôn bà.
Tôi là đứa bé khá ngờ nghệch, được Mẹ cho đi học thì cắp sách đến trường;
chứ không hề biết học để làm gì? Tôi chưa từng có ý niệm rằng học để trở nên
người hữu dụng cho tương lai xứ sở. Do đó, cuối niên khóa được lên lớp là do sự
may mắn, hơn là do sự cố gắng bản thân. Khi lên lớp Đệ Lục, tôi nghe Mẹ tôi nói
một câu làm tôi tỉnh ngộ: “Gắng học đi con để sau này ấm vào thân. Nếu cứ lười
biếng thì sau này chỉ có nước đứng đường thôi con ạ!”. Đứng đường tức là làm
người ăn mày lạy ông đi qua, lạy bà đi lại; chứ không phải là làm thầy đội Cảnh
sát đứng đường điều khiển cho xe cộ lưu thông!
Từ đó, tôi tỉnh ngộ và bắt đầu thời điểm đó, tôi chăm chỉ học, nên cuối
niên học nào tôi cũng đều được lĩnh phần thưởng về các môn Toán, Lý Hóa, Anh,
Pháp văn, Việt văn. À, cũng xin nói thêm, trước kia, làm cho xong một bài luận quốc
văn là một cực hình đối với tôi. Nhưng nhờ học thêm Pháp văn với thầy Trần văn
Thông, gần nhà thờ Phủ Cam - Huế, được thầy dạy pháp cú “analyse logique,
analyse grammaticale” khiến cho tôi viết câu văn tiếng Việt sáng sủa hơn với đầy
đủ chủ từ, động từ và túc từ. Ông bà mình nói không sai: “Không thầy, đố mày
làm nên!”. Mỗi khi viết một bài văn nào, tôi đều nhớ ơn thầy Trần văn Thông.
Nhân đây, tôi cũng xin nhắc lại một việc: Mẹ tôi là người thầy dạy vỡ lòng
cho tôi về chữ Hán và chữ Pháp. Câu Hán văn và Pháp văn mà Mẹ tôi muốn xây dựng
con người tôi như sau: “Phú quý bất năng
dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” (Giàu không tham, nghèo
không hèn, mạnh không sợ) và “Gravez les
bienfaits sur le marble; les malfaits sur le sable” (Khắc ghi những nghĩa cử
trên đá cẩm thạch; những điều bội bạc trên cát). Suốt đời tôi cố gắng thể hiện cung
cách ứng xử trong cuộc sống như lời Mẹ dạy.
Kết quả thi Trung học Phổ thông, Tú tài I hay Tú Tài II, tôi đều đậu bình,
một phần do may mắn! Nghiệm ra, tôi không đến nỗi đần, mà chỉ phải tội chậm trí
khôn. Vào trường đời, tôi cũng thuộc loại chậm trí khôn, vì không biết cách làm
đẹp lòng thượng cấp, mặc dầu chưa bao giờ kiếm cớ thoái thác một phi vụ nào do
căn bệnh … lạnh cẳng.
Nhớ có lần tôi đã phạm vào một điều dại dột trong cuộc họp hành quân. Đó là
lúc tôi đứng lên phản đối cấp trên lấy tên chiến dịch Cầu Không Vận là “Kỳ
Duyên Mai” (phương danh của đương kim Tư Lệnh, con và vợ). Theo tôi, đáng lý ra
phải lấy tên của một vị anh hùng trong lịch sử dân tộc đặt tên cho chiến dịch
thì mới đúng! Do “sự cố” ấy, tôi được bạn hữu trong đơn vị đặt cho cái hỗn danh
“Đặng văn Ẩu” vì dám công khai “chống” lại thượng cấp. Thật tình, tôi chưa hề
làm “ẩu” điều gì để phạm vào quân phong quân kỷ! Tôi lên tiếng vì lợi ích
chung. Chẳng qua, nghĩ mình cứ hành xử như lời Mẹ dạy mà thôi.
Tôi có một người Mẹ tuyệt vời, hết lòng thương con, nhưng tôi đã phạm vào
ba trọng tội mà tôi nghĩ rằng mình là đứa con bất hiếu. Lòng tôi cứ dằn vặt, ăn
năn, hối hận, ray rứt khôn nguôi. Đó là:
Thứ nhất, Mẹ tôi muốn tôi theo học ngành y khoa để nối nghiệp thân phụ tôi.
Theo bà, nghề bác sĩ giúp con bà cứu nhân độ thế để hưởng phước. Tôi đã gia nhập
vào Không Quân, trái với ước nguyện của Mẹ hiền.
Thứ hai, Mẹ tôi đã thể theo lời xin của tôi để dạm hỏi cô nữ sinh học trò của
tôi cho tôi, nhưng cuối cùng tôi đã phản bội nàng để kết hôn với người khác.
Tôi đã làm cho Mẹ tôi trở thành kẻ bội ước với thông gia.
Thứ ba, cuối tháng Tư năm 1975, tôi đã không ép Mẹ tôi bằng cách “cưỡng bức”
bà lên xe để thoát ra khỏi nước, chỉ vì bà nói bà không muốn bỏ nắm xương nơi
quê người. Mẹ tôi đã qua đời trong đói lạnh, cô đơn ở quê nhà. Tôi đã khóc òa
như một đứa bé khi hay tin Mẹ mình khuất núi.
Hơn 37 năm sống ở quê người, tôi ao ước có dịp về nước, đến trước mộ phần của
Mẹ để nói lời tạ tội. Nhưng bởi lo ngại an ninh bản thân, tôi cứ chần chừ vì đã
viết nhiều bài đăng trên mạng lên án gắt gao chống lại chính sách cai trị tàn
ác của chế độ hiện hành. Tháng 8 năm 2011, có lẽ cuộc nhân duyên giữa vợ chồng
chúng tôi đã dứt, tôi liều mình về quê nhà để thể hiện sự sám hối của mình trước
vong linh Mẹ.
Khi về đến phi trường Nội Bài, Hà Nội, tôi “được” hai cán bộ an ninh văn
hóa “trao đổi” hơn 90 phút và ba ngày sau tại khách sạn cũng “được” nhân viên
an ninh chiếu cố hơn 4 giờ đồng hồ. Tôi sẽ tường trình nội vụ này vào một dịp
khác. Từ Hà Nội, tôi gọi điện thoại cho một người bạn học từ thời tiểu học báo
tin tôi đang ở Hà Nội. Bạn tôi ban đầu không tin, vì nghĩ rằng tôi không dám về.
Đúng thế! Từ lâu tôi không về nước vì vợ tôi ngăn cản. Nàng sợ nhỡ tôi bị bắt
giam thì nàng sẽ phải tốn tiền để chuộc tôi ra. Nay, duyên nợ giữa nhau đã dứt.
Nàng không còn trách nhiệm gì với bản thân tôi, nếu tôi về để bày tỏ sự hối hận
với vong linh Mẹ mà bị bắt giữ thì tôi cũng cam lòng.
Bạn tôi biết đích xác tôi đang ở Hà Nội, sau khi nhìn vào “caller ID” hiện
ra trên điện thoại của anh. Bạn tôi nói (xin lặp lại nguyên văn ngôn ngữ địa
phương Huế): “Mi có về Huế thăm mộ O (tức Mẹ tôi) thì nhớ gọi cho hắn nghe!”.
Chữ “hắn” trong câu nói của bạn tôi là vị hôn thê mà tôi đã bội tình thưở trước.
Anh bạn cho tôi số điện thoại của nàng. Có số điện thoại được bạn cho, tôi vẫn
không dám gọi nàng, vì tự hỏi: “Gọi để nói gì bây giờ? Nhỡ khi nghe mình xưng
tên, nàng sẽ thốt lên những lời xỉ mắng vì sự bội bạc của mình hoặc nàng cúp
máy không thèm nói chuyện thì bẽ bàng vô cùng”.
Hai ngày sau, bạn tôi gọi và hỏi: “Mi đã gọi cho hắn chưa?”. Tôi đáp:
“Chưa!” Bạn tôi có vẻ nôn nả: “Tại răng mi không gọi cho hắn?”. Tôi nói về lý
do sự ngại ngùng do dự của tôi, bạn tôi cười: “Mi còn nhớ đến chuyện hai đứa
bây đi xem bà thầy bói Bụi không?”. Tôi đáp: “Chừ mi nhắc thì tau mới nhớ,
nhưng có liên quan gì trong việc tau gọi điện thoại cho hắn?”. Bạn tôi trả lời
một cách quả quyết: “Hắn còn yêu mi và chờ mi về đó. Tính đến nay đã là 38 năm
kể từ ngày hắn ly dị chồng hắn. Tau đã giới thiệu mấy thằng bạn giáo sư đồng
nghiệp của tau cho hắn mà hắn không bằng lòng đứa nào hết. Hắn nhất quyết đợi
ngày mi trở về đó. Mi hãy mau mau mà gọi cho hắn đi”. Nói xong một hơi dài, bạn
tôi cúp máy điện thoại.
Hồi tưởng lại chuyện quá khứ. Năm 1963, chúng tôi sửa soạn làm đám cưới.
Hôn thê của tôi kéo tôi đi xem bói bà thầy bói Bụi, vì bà nổi tiếng bói rất
đúng. Chiều lòng người yêu, tôi cũng đi, nhưng tôi chẳng bao giờ tin nhảm. Sau
khi hỏi tuổi tác chúng tôi, bà thầy gieo quẻ, rồi đoán: “Cuộc hôn nhân của hai
anh chị sẽ không thành!”. Nghe bà thầy nói thế, gương mặt người yêu tôi tái đi,
còn tôi tỏ ra giận dữ: “Bà thầy nói bậy, chúng tôi yêu nhau, cha mẹ hai bên đều
đồng ý. Lý do nào mà bà nói không thành? Tôi đập mu rùa của bà bây giờ!”. Bà thầy
bình thản trả lời: “Chừng nào cuộc hôn nhân của hai anh chị thành thì anh trở lại
đây đập mu rùa của tôi cũng chưa muộn!”. Trước sự quả quyết của bà thầy bói, vị
hôn thê của tôi khóc nức nở. Tôi xoa lưng nàng và trấn an: “Bói toán nhảm nhí,
em tin làm gì?”. Có lẽ cảm động vì những giọt nước mắt của người yêu tôi, bà thầy
nói: “Tình duyên của hai anh chị phải trải qua một đoạn đường dài chia ly rồi mới
thành tựu. Anh này có đi cùng vành non nước đi nữa thì sau tứ tuần hoa giáp,
anh cũng sẽ trở về với chị thôi!”. Đang bực tức vì lời tiên đoán của bà thầy
làm người yêu tôi khóc, tôi hỏi: “Tôi không rành chữ Nho. Bà nói tứ tuần hoa
giáp là nghĩa lý gì?”. Bà thầy lại bình thản giải thích: “Hoa giáp là 12 năm, tứ
tuần hoa giáp là 48 năm. Tôi quả quyết rằng 48 năm sau anh sẽ về tác hợp tình
duyên với cô này”.
Tôi vẫn cho rằng bà thầy bói nói nhảm. Nhất định không tin. Chẳng ngờ cuộc
hôn nhân giữa hai chúng tôi bất thành. Vì tuổi trẻ thiếu bản lĩnh, tôi đã phạm
vào một trọng tội mà thâm tâm tôi không bao giờ dụng ý phản bội ý trung nhân của
tôi. Khi tôi thú nhận với vị hôn thê của tôi rằng tôi trót rơi vào một tình trạng
khó xử, nàng nói trong nước mắt: “Số trời đã định vậy, em chấp nhận hy sinh”.
Tôi quá hổ thẹn trước tấm lòng quảng đại, vị tha của người yêu. Tôi quá xót xa
cho nàng, nhưng chẳng biết làm sao hơn.
Tuân theo lời khuyên của bạn, tôi bấm số điện thoại gọi cho nàng và hy vọng
không bị nàng buông những lời nói phũ phàng hay gác máy không thèm tiếp. Khi
tôi nói tôi là ai qua máy điện thoại thì đầu dây phía bên kia có tiếng cười thật
tươi reo lên: “Anh đó à? Anh về rồi đó à? Em đây! Đúng 48 năm rồi đó anh hí!”.
Năm 1963 tôi chia tay nàng. Năm 2011 tôi lần đầu tiên gọi điện thoại cho
nàng từ Hà Nội đúng 48 năm sau. Không còn do dự gì nữa, khi về Huế lạy tạ lỗi
vong linh Mẹ, tôi sẽ tìm gặp người yêu xưa. Nếu định mệnh dun dủi, tôi có cơ
duyên sẽ tiếp nối cuộc sống còn lại với người vợ (sắp cưới) đầu đời thì cũng là
ý trời. Tôi nghĩ thế! Bốn mươi tám năm trước tôi thú tội với người yêu, nàng
không một lời trách móc, giận hờn. Bốn mươi tám năm sau gọi điện thoại thăm người
yêu xưa, nàng đã không buông lời giận hờn trách móc mà còn reo lên một cách
sung sướng giống như người thiếu phụ chờ chồng sau cuộc vạn lý trường chinh.
Gặp người yêu xưa, tôi đã quỳ xuống xin lỗi nàng và xin nàng rộng lòng tha
thứ. Nàng vội cầm lấy hai tay tôi và nâng tôi đứng dậy, rồi ôm tôi một cách âu
yếm nồng nàn. Xưa nay, tôi chưa bao giờ được nàng ôm chặt đến như thế. Trong giờ
phút ấy, trước mắt tôi, nàng là hiện thân của Phật Bà Quan Âm hay Đức Bà Maria.
Vì chỉ có con người bao dung thánh thiện mới tha thứ cho tôi một cách dễ dàng
như thế!
Tôi kể cho nàng nghe chuyện tôi và vợ tôi đang trong tiến trình ly dị. Người
yêu tôi nhẹ nhàng khuyên: “Anh hãy cố gắng về hòa giải với chị. Cả hai đã ở tuổi
ngoài 70, chẳng còn sống được bao lăm! Em thui thủi một mình gần 40 năm nên quen
rồi! Chỉ khi nào sự cố gắng hòa giải của anh bất thành, anh bị ruồng rẫy, hất hủi,
gục ngã thì em sẽ vực anh đứng dậy! Chưa lúc nào em giận anh vì em tin cái số
em như thế! Chưa lúc nào em thôi yêu anh!”
Sau cuộc chia tay giữa hai chúng tôi, nàng ngày ngày đi dạy học, nuôi Mẹ
già và đứa em bị bệnh tâm thần. Nàng quyết sẽ không kết hôn với bất cứ ai.
Nhưng cuối cùng nàng phải vâng lời yêu cầu của Mẹ vì nàng là người con chí hiếu.
Nàng đành kết hôn với một người mà nàng không hề yêu. Tiếc thay! Người đàn ông ấy
mắc chứng bệnh ghen tuông một cách kỳ lạ. Anh ta nhiều lần bạo hành với vợ một
cách tàn nhẫn vì nghĩ rằng nàng còn ngoại tình trong tư tưởng, nghĩa là còn yêu
tôi. Riêng tôi, tôi không hề liên lạc với nàng bằng dưới mọi hình thức nào để
nàng yên thân bên chồng, bên con.
Không thể chịu đựng nổi người chồng vũ phu, nàng về sống với Mẹ và ly hôn
chồng. Tin tưởng vào lời tiên đoán của bà thầy bói, nàng cương quyết chờ tôi.
Chưa lúc nào tôi tin vào thuyết định mạng hay duyên nghiệp như thế, sau khi gặp
gỡ nàng. Giả sử chồng nàng biết cách xử sự như một người có văn hóa đối với vợ
thì dù không yêu chồng, nàng cũng không ly hôn vì cổ tục hoặc lễ giáo Huế không
bao giờ chấp nhận người đàn bà ly dị chồng. Giả sử vợ chồng tôi có chuyện bất
hòa dù nặng nề đến đâu, tôi cũng không thể bỏ vợ. Chẳng qua bị vợ xua đuổi, sỉ
nhục mà tôi không thể chấp nhận là do số trời đã định đoạt để cho tôi trở về
quê nhà và được biết người yêu xưa vẫn chờ mình. Bốn mươi tám năm sau tôi trở về
quê để bái lạy hương hồn Mẹ tha thứ, tôi lại được người yêu xưa tha thứ. Biết
đâu Ơn Trên đã dẫn đưa hai anh em chúng tôi về lại với nhau như bà thầy bói năm
xưa đã dự đoán? Tôi rất ao ước được sống phần đời còn lại bên người yêu xưa.
Chúng tôi không phải là hai kẻ bỏ vợ bỏ chồng để lấy nhau ở tuổi xế chiều.
Chúng tôi trở về với nhau do sự an bài của định mệnh hay duyên nghiệp, tùy theo
tín ngưỡng của mỗi người.
Tôi không ghi xuống đây chức vụ của mình từng đảm nhiệm trong quân ngũ, vì
tôi nhớ đến Đặng Trần Thường, kẻ phò Nguyễn Ánh đắc thắng, đã hành xử thiếu
quân tử đối với kẻ ngã ngựa vì mối thù trước kia. Thường ra câu đối buộc kẻ bại
trận phải đáp:
“Ai công hầu, ai khanh tướng. Trong trần ai, ai dễ biết ai?”. Ngô Thời Nhậm, kẻ phò vua Quang Trung trả lời:
“Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu. Gặp thời thế, thế thời phải thế!”
Đặng Trần Thường có cái vẻ vênh váo của kẻ chiến thắng với cái chức vị công
hầu khanh tướng của mình. Trái lại, Ngô Thời Nhậm không tỏ ra hèn vì thua trận.
mà phải khúm núm xin tha tội. Chẳng qua cái thời cái thế xoay vần xui nên đấy
thôi!
Cái thời, cái thế, cái định mệnh, cái duyên nghiệp đã khiến cho chúng tôi
đánh mất nhau. Rồi cũng chính cái thời, cái thế, cái định mệnh, cái duyên nghiệp
đưa chúng tôi về lại với nhau. Tôi quỳ xuống xin lỗi người yêu xưa của tôi
không phải tại vì tôi hèn, mà tại vì tôi sám hối và tôi ngưỡng mộ tấm lòng bao
dung, cao cả, vị tha của nàng đã tha thứ cho tôi.
Nghĩ cho cùng, công hầu hay khanh tướng như Đặng Trần Thường tỏ ra kiêu
hãnh, đối với tôi cũng chỉ là trò bãi biển nương dâu, chỉ là phù vân gió cuốn
mây trôi. Tôi cho rằng cách ứng xử độ lượng giữa người với người với nhau mới
là vĩ đại. Tôi rời Houston, Texas để về định cư tại Quận Cam của California. Bạn
bè, bà con giúp đỡ tôi rất nhiều nên chỉ trong một thời gian rất ngắn tôi đã
thu xếp cuộc sống tạm gọi là ổn định với đầy đủ tiện nghi. Tôi xin bày tỏ lòng
biết ơn chân thành của tôi đến tất cả bà con, bạn bè. Xin xác nhận rằng câu nói
“Ở hiền gặp lành” của tiền nhân rất chính xác. Tôi đã được bà con, bạn bè giúp
đỡ tận tình. Mỗi ngày tôi đều đọc Kinh Chú Đại Bi và đọc sách Phật để thấm nhuần
lẽ vô thường của Tạo Hóa. Bài kinh sám hối đọc từ thưở còn là đồng niên Phật tử
Gia đình Chơn Tuệ tôi vẫn nhớ:
“Đệ tử kính lạy Đức Phật Thích
Ca, Phật A Di Đà, thập phương chư Phật cùng Thánh, Hiền, Tăng. Đệ tử lâu đời
lâu kiếp, nghiệp chướng nặng nề, tham giận, kiêu căng, si mê, lầm lạc. Ngày nay
nhờ Phật, biết sự lỗi lầm, thành tâm sám hối. Thề tránh điều dữ, nguyện làm việc
lành … Ngửa trông ơn Phật, từ bi gia hộ, thân không tật bệnh, tâm không phiền não,
ngày ngày an vui tu tập, phép Phật nhiệm mầu để mau ra khỏi luân hồi …”
Thiết nghĩ, chỉ có tình yêu thương gồm có lòng bao dung, sự quảng đại, tính
vị tha, tình lân tuất thương yêu kẻ nghèo khó, hoạn nạn là trên hết mọi sự trên
đời, vì nó giúp ta quên được cái “NGÔ vị kỷ thì tự khắc mình sẽ cảm thấy hạnh
phúc trong đời.
Thưa tất cả bằng hữu,
Tôi đang hành trì đạo Từ Bi của Đức Phật. Xin các bạn cầu nguyện cho tôi có
ý chí bền bỉ. Xin cảm ơn tất cả. Xin cầu nguyện gia quyến của mọi người đều được
an vui, hạnh phúc.
Bằng Phong Đặng văn Âu, chiều Chủ Nhật, ngày 12 tháng 2 năm 2012.
Dưới đây là bài viết của người
yêu đầu đời của tôi và cũng là người vợ hiện thời của tôi.
NẾU CÓ KIẾP SAU …
Tháng 8 năm 1963, tôi xách chiếc va-li nhỏ vào trường Sư phạm Quy Nhơn trước sự ngạc nhiên của bạn bè cùng lứa: “Con Hồng mà học Sư phạm Quy Nhơn ni à?…”.
Vâng, các bạn tôi không ngạc nhiên sao được, khi con bé Hồng tuy nhà quê, nhưng khi vào trường nữ trung học Đồng Khánh, từ Đệ thất đến Đệ nhị luôn giành ngôi vị đứng nhất lớp; chỉ khi qua Đệ nhất Quốc học mới chịu đứng thứ hai, (nên dỗi không đi lãnh phần thưởng — thật là trẻ con!). Thành tích học ấy là niềm mơ ước của các phụ huynh khá giả hồi đó để mong đưa con vào trường Dược, trường Y. Và chính tôi cũng từng ôm mộng như thế, nên khi vào lớp Đệ tam tôi đã không chọn ban Văn chương (ban C) dù tôi rất thích và khá giỏi hai môn Anh và Pháp ngữ, mà ghi vào ban Vạn vật (ban A), vì ông anh Cả ở Sài Gòn ra thăm bố mẹ tôi, biết thành tích học của tôi, nên hứa sẽ “nuôi” cho tôi học Dược ở Sài Gòn. Thế là tôi chúi đầu vào “gạo” Vạn vật và Lý Hóa để chuẩn bị được cầm cái bằng Tú tài II, hầu bước vào Đại học. Tôi vui mừng bay ngay vào Sài Gòn (với tấm vé mà cha tôi phải mượn tiền để mua). Nhưng oái ăm thay, ông anh Cả tôi đã quên lời hứa, kèm lời phán của bà chị Dâu: “O Hồng con gái học chi cho lắm, chỉ ích lợi mai sau chồng nhờ, thôi để tiền nuôi chú T (em trai tôi) …” Và khi tôi trở lại Huế thì đã quá muộn để ghi tên vào phân khoa Đại học, chỉ còn Sư phạm Quy Nhơn nhận đơn, tôi ghi danh thi và đậu ngay.
Các bạn
ơi! Giờ đây tôi kể dông dài như trên không phải là nhằm mục đích khoe mẻ thành
tích của người về già còn tiếc nuối cái quá khứ học giỏi của mình (để làm gì cơ
chứ?!), mà chỉ để các bạn biết cho lòng tôi miễn cưỡng thế nào khi vào Sư phạm
Quy Nhơn — buồn tủi vì cha mẹ nghèo không đủ tiền cho con học cao, lại tự ái và
sỉ diện hão với bạn bè cùng lớp — tôi đã từng ray rứt với ý muốn bỏ trường bỏ bạn,
rời xứ dừa sau mỗi biến cố của đời tôi. Nhưng ân tình sâu đậm của Thầy, của bạn
mà tôi sắp kể dưới đây đã gắn số phận tôi với trường Sư phạm, với nghề giáo
thân thương mà đến nay tôi rất đỗi tự hào.
Hai năm học
ở trường Sư phạm Quy Nhơn tôi đã phải gánh chịu hai cái đại tang — hai cái tang
quá lớn trên đôi vai gầy của một cô gái ngây thơ bé bỏng. Có lẽ linh cảm điều
đó không vui cho tương lai của tôi, nên chuyến tàu lửa mang tôi vào xứ dừa thật
ảm đạm, tiếng bánh xe sắt của con tàu đều đặn lăn trên đường rầy hòa với tiếng
chong chóng quay ầm ào của hai chiếc trực thăng hộ tống vần vũ trên đầu toa xe
(đề phòng VC tấn công).
Nhập học tháng 9 thì một chiều tháng 12, tôi được điện tín báo tin cha tôi qua đời vì đột biến. Sóng biển, hàng dương bên trường than khóc cùng tôi suốt đêm. Các bạn nội trú xúm xít an ủi vỗ về tôi. Trong đầu tôi lởn vởn ý tưởng về Huế rồi sẽ không quay trở lại vì mục đích học Sư phạm của tôi là vừa có học bổng, vừa chóng ra trường có tiền để giúp cha già không còn nữa. Nay cha mất rồi thì tôi học tiếp ở đây làm gì? Về Huế sang năm thi vào Đại học Sư phạm hoặc học SPCN để chuẩn bị vào trường Y khoa.
Nhập học tháng 9 thì một chiều tháng 12, tôi được điện tín báo tin cha tôi qua đời vì đột biến. Sóng biển, hàng dương bên trường than khóc cùng tôi suốt đêm. Các bạn nội trú xúm xít an ủi vỗ về tôi. Trong đầu tôi lởn vởn ý tưởng về Huế rồi sẽ không quay trở lại vì mục đích học Sư phạm của tôi là vừa có học bổng, vừa chóng ra trường có tiền để giúp cha già không còn nữa. Nay cha mất rồi thì tôi học tiếp ở đây làm gì? Về Huế sang năm thi vào Đại học Sư phạm hoặc học SPCN để chuẩn bị vào trường Y khoa.
Sáng hôm
sau, bạn bè cùng phòng nội trú, cùng lớp và cảm động nhất là thầy Lương, Hiệu
trưởng, cùng tiễn tôi tận chân cầu thang lên máy bay. Thầy xoa đầu tôi an ủi thật
trìu mến như cha tôi thường làm với tôi. Thầy còn cử anh Võ trị Hà, người trưởng
tràng, lại là hàng xóm của tôi tháp tùng theo tôi để đại diện trường phúng điếu
cha tôi và giúp đỡ tôi trở về trường. Anh Hà cũng thích vì được dịp về thăm Mạ.
Nhìn xuống sân bay tôi thấy mái tóc thầy như bạc thêm, cùng những cánh tay vẩy
vẩy của bạn bè mờ đi sau làn nước mắt. Trước ân tình ấy, ý nghĩ sẽ bỏ trường bỏ
lớp bỗng tan biến trong đầu. Tôi trở lại trường tìm vui trong tình thương của
thầy, của bạn. Tôi lại vô tư gây cười cho các bạn, thường tự xưng mình là Hồng
Thất Công (trong Thần Điêu Đại Hiệp) khi ngồi trên lầu hai, lầu ba mà dùng tài
đánh hơi của lão “Cái Bang” đoán trúng phóc trưa nay Mệ Huế cho ăn món gì, khiến
các bạn phục lăn và cười như “nắc nẻ” khi xuống tới phòng ăn. Tại đây, cả nhóm
ăn lại nhỏng nhẻo với Mệ Huế là không ăn được cá ngừ, cà nướng … v…v.. Tội nghiệp
Mệ Huế lại trìu mến sai đổi cho thành món chả trứng, cá thu chiên … Thế là các
nàng dù là Hoàng Dung xinh đẹp, dù là “Phật tổ” Như Lai, dù là nàng Tôn Nữ Âu
Dương Phong e lệ … (biệt hiệu của các bạn cùng phòng nằm cạnh giường tôi) đều
ăn ào ào như tằm
ăn rỗi, đem soong vào xin thêm cơm. Các chị bếp vui vẻ xới thêm rất tự nhiên để
các cô khỏi thẹn, chỉ một nhát xúc của chiếc đũa bếp to như cái “xẻng xúc đất”
là đủ đầy soong cơm. “Kílô” của các nàng tăng vùn vụt, vì sáng nào cũng “nhón”
sạch hai thúng khoai lang luộc, bánh ú của hai nhóc con bác cai đội lên bán. Khỏi
rao, khỏi mời, hai chú đã được các nàng ngóng từ thật xa, rồi đón ở cầu thang
và thoáng một chốc chỉ còn hai cái thúng không. Các chú chỉ việc ngồi chờ, một
lát sau các nàng đem tiền ra trả đủ. “Này chị hai xâu (khoai)…, này chị hai cặp
(bánh ú) …”. Các nhóc chỉ việc đếm tiền, xong đội thúng ra về. Hỉ hả!!! Giành
nhau mua vậy, nhưng ai chậm chân không mua được đều có phần chia cho. Vui như hội!
Ăn, ngủ, cười và … chờ thư. Chỉ khi nào đọc thư người yêu thì mỗi nàng lui về một
thế giới xa xôi với khóc, cười, trăn trở…
Nhưng số
phận lại không mỉm cười với tôi vào năm sau, tôi lại chịu cái đại tang thứ hai.
Lần này không phải là vành khăn trắng lên mái tóc, mà là mảnh khăn đen vắt qua
“con tim vừa vui trở lại” của tôi: Người yêu của tôi, mối tình đầu trong sáng của
tôi, vị hôn phu của tôi đã phụ tình tôi. Đời phi công hào hoa, đời lính cận kề
bên cái chết, cùng với thái độ tránh né giữ gìn thái quá của người con gái Huế
như tôi, cộng thêm không gian xa cách, khiến chàng sa ngã vào ánh sáng phù hoa,
vào niềm đam mê vội vã mà nói lời bội ước với tình xưa. Trước lời thú nhận đã lỡ
lầm của vị hôn phu, dưới sự chứng kiến của gia đình hai bên, dù mẹ chàng cố nói
ra lời hàn gắn, nhưng tôi đã bình tĩnh chúc chàng hạnh phúc (không một giọt nước
mắt van vỉ, không một lời oán trách hờn ghen), vì tôi nghĩ rằng bất cứ thái độ
nào khác cũng sẽ đánh đổ thần tượng của chàng trong tôi. Và tôi cũng không cần
một chút nào lòng thương hại của kẻ khác. “Người ta phụ mình, nhưng làm sao cho
người ta vẫn tôn trọng mình”, tôi nghĩ thế.
Từ Sài
Gòn trở lại Quy nhơn với con tim băng giá, với đôi mắt ráo hoảnh, tôi lại có ý
nghĩ bỏ Sư phạm, rồi về Huế ghi danh học Đại Học để trở thành một bác sĩ, hơn hẳn
“người ta”
cho bõ tức. Nhưng anh lớp trưởng nhận ra nỗi buồn vời vợi trong tôi. Chờ lớp về
hết, anh ở lại hỏi tôi “Sao em có vẻ buồn thế?”. Anh lớp trưởng đã có vị hôn
thê ở Quảng trị và xem tôi như người em gái nhỏ. Tôi cũng xem anh như anh mình,
nên khi anh hỏi chạm đến vết thương lòng, tôi đã òa lên khóc nức nở và kể cho
anh nghe về mối tình tan vỡ của mình. Anh để yên cho tôi khóc, rồi dùng lời an ủi
động viên tôi. Sau đó anh cùng các bạn trong lớp tổ chức nhiều chuyến du ngoạn
ngoại thành: thăm Tháp Chàm ở Quy nhơn, trại cùi Quy hòa, viếng mộ Hàn Mặc Tử…
, để tôi thấy nhiều cảnh khổ gấp bội mình. Rồi chuyến đi về Tuy Phước, thăm sâu
vào làng quê Bình Định với những phong cảnh thật nên thơ, nhưng thấp thoáng những
bộ quần áo đen lầm lũi (VC đó). Thấy thật rùng mình, may mà có anh trong đoàn,
sinh trưởng ở vùng đó nên không việc gì. Rồi những phút cùng các bạn nội trú lầu
ba ôm nhau lăn xuống gầm giường khi VC tấn công nổ bom tự sát làm sập lầu Việt
Cường dưới phố (nơi có binh lính Mỹ đến đó ăn uống sau mỗi cuộc hành quân). Khi
lầu hết rung chuyển, chúng tôi cùng chui ra một cách khó khăn gấp bội so với
khi chui vào. Thầy Giám học lên bảo: “sao lại chui xuống gầm giường, sao không
chạy xuống núp trong các hố cát ngoài sân, nhỡ lầu sập thì sao?” Thì ra khi hoảng
hốt, chúng tôi đã hành động giống như những con đà điểu rúc đầu vào cát lúc gặp
hiểm nguy. Nhưng nằm trong hố cát ở sân nhìn lên trời càng đáng sợ hơn: những lằn
đạn xanh đỏ bay vèo vèo trên bầu trời do VC tấn công vào thành phố, bên ta chiến
đấu đẩy lui. Thế là cái khổ, cái chết lại giúp tôi gắn bó với trường với bạn,
chúi mũi tìm quên trong việc học, uống từng lời dạy dỗ của thầy cô để ra trường
với hạng thủ khoa (mà các bạn cứ trêu là “thủ khôi” khiến tôi hờn giận mãi — thật
là trẻ con!). Tôi được chọn giữ ở lại trường làm giáo sư hướng dẫn các khóa
sau, nhưng tôi chỉ muốn về Huế để được sống bên mẹ già.
Rồi chính
nhờ được làm một cô giáo hiền hòa, mẫu mực mà tôi đã vượt qua những nghiệt ngã
của số phận do sự đối xử hà khắc của gia đình chồng và những tai ương của đất
nước tạo nên. Môn tâm lý giáo dục của thầy Mẫn dạy tôi biết nói những lời ái ngữ
với học trò trước khi phê bình cái sai của chúng. Nhớ lời thầy, tôi không bao
giờ phê “chữ cẩu thả” mà “em cần viết cẩn thận hơn”, hoặc không phê “vở nhớp
quá” mà là “vở sạch mới đẹp”…
Những năm
dạy tiểu học, trong cặp tôi lúc nào cũng có hộp kim chỉ để khâu áo cho những em
nào nhỡ rách, có cả lượt dày để chải chí cho mấy em gái nghèo thiếu bàn tay mẹ
chăm sóc, có cả kéo để cắt tóc cho các em khỏi bị tóc che mắt…
Khi được chuyển về trường cấp II Thuận An thì nơi đây là quê hương thứ hai che chở giúp tôi vượt qua những khổ ải do gia đình chồng đọa đày. Lúc phải rời bỏ gia đình chồng do bị đàn áp quá đáng, các phụ huynh ở Thuận An đã đùm bọc, an ủi xoa dịu cho tôi những vết thương từ thể xác đến tâm hồn. Thậm chí có người mở lời cho tôi và hai con vượt biên cùng con của họ mà không phải đóng một cắc bạc, nhưng tôi không thể bỏ mẹ già và cậu em bị tâm bệnh để ra đi. Các học sinh của tôi đều mê môn Văn tôi dạy, phải chăng do tôi đã trao truyền cho các em tất cả tình cảm thương yêu và trải nghiệm của bản thân vào trong mỗi bài giảng? Thời bao cấp, nhà giáo đều thiếu thốn, nhưng tôi biết tranh thủ thời gian để chạy chợ nuôi mẹ, em và các con no đủ. Thấy các cô giáo mà phải vất vả ngược xuôi, các cô dì chủ hàng cũng thương, dành cho sự nhẹ nhàng, ưu ái. Một số bạn tôi bỏ nghề, vì nghề giáo cơ cực quá, nhưng tôi thì không. Tôi nghĩ rằng nhờ giữ nghề dạy học mà một người mẹ đơn thân như tôi mới có thể giáo dục các con chăm ngoan, thành đạt và có cuộc sống gia đình hạnh phúc hơn bố mẹ chúng. Tôi cảm thấy lời Phật dạy “sống từ bi, hỉ xả” như thấm từ lúc nào vào cuộc đời làm cô giáo của tôi, tự nhiên như cây cỏ hấp thụ khí trời. Tôi không hề oán hận ai, thậm chí cả với người đã hành hạ mình.
Có lẽ cuộc đời nhà giáo của tôi chỉ biết gieo nhân lành nên cuối đời gặp quả ngọt: người yêu đầu đời của tôi đã trở về quỳ xuống xin tạ tội vì đã để đời tôi bấy lâu chịu khổ đau. Anh đã đón tôi sang đất nước Hoa Kỳ để tôi được sống sung sướng quãng đời còn lại. Tôi được học sinh cũ của trường Trung học Thuận An từ nhiều tiểu bang về chào mừng hoặc gọi điện thăm hỏi, dẫn cô đi thăm thú cảnh đẹp nhiều nơi . Ôi, còn gì sung sướng hơn khi thấy những học sinh bé bỏng ngày xưa của mình, giờ đây đã trở thành những trung niên khôi ngô, thành đạt, những thiếu phụ xinh đẹp, lịch lãm nơi xứ người. Vậy mà đối với cô giáo cũ, các em vẫn một tiếng “thưa” hai tiếng “dạ” rất đỗi lễ phép, khiến lòng tôi cảm thấy xúc động nao nao, tự hào về mình và về các học sinh thân yêu. Tôi còn được gặp lại các bạn nội trú trường Sư phạm Qui nhơn ngày xưa, nay các nàng đều xấp xỉ ở ngưỡng “thất thập cổ lai hi”, nhưng vẫn xinh đẹp, vẫn yêu đời và nhất là tình bạn vẫn nồng nàn, thắm thiết như xưa. Phải chăng, nhờ ngành Sư phạm mà vẻ đẹp truyền thống của nền văn hóa Việt nam vẫn nở hoa trên xứ người!
Chính vì thế, như đầu bài viết, tôi có kể lể là tôi miễn cưỡng thi vào trường Sư phạm, thì nay tôi xin sửa sai để khẳng định: Nếu có kiếp sau, tôi lại cố gắng học để được thi vào ngành Sư phạm, được làm một cô giáo mẫu mực, dịu hiền, để trao hết tri thức và tình cảm yêu thương của mình cho thế hệ mai sau: gieo những nhân lành nhằm tạo quả ngọt cho đời.
Nguyễn thị Hồng, Khóa 2 SPQN
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.