HỒI ÂM "DÒNG
ĐỜI" NGA SÀI GÒN
Hồi Âm "DÒNG ÐỜI..." Nga Sàigòn.
Truyện Tình Thời Chinh Chiến
Anh Duy thân mến,
Em ngồi viết lá thư này cho anh khi cơn mưa vừa mới tạnh.
Cơn giông miền nhiệt đới ào ạt, kéo dài độ chừng hai tiếng đồng hồ, nhưng cũng
đã làm cho cái nóng oi bức của Sàigòn dịu bớt. Mưa đã dứt, chỉ còn những giọt
nước nhỏ thỉnh thoảng tí tách rơi trên miếng tôn mỏng hứng nước bên hiên nhà.
Nghe tiếng giọt nước gõ đều đặn, rồi nghe tiếng nhịp tim mình đập, em bỗng thấy
hình như mình mang một tâm trạng bồi hồi. Ðặt bút viết là thư này cho anh, lòng
em cũng cảm thấy bồi hồi như thủa ấy cầm tay anh lần đầu, mà không ngờ cũng là
lần chào ly biệt.... Không biết rồi lá thư này có thể đến tay anh? Nếu may mà
thư đến, đọc xong anh sẽ nghĩ gì? Thôi em cũng liều... Cầm bằng như gió mang
đi.
Tuần trước em đến thăm chị Hạnh, người bạn làm việc cùng cơ
quan với em trước đây. Chị ấy xin phục viên sớm, vì đồng lương nhà nước trả
không đủ sống. Chưa kể là đôi ba tháng nhà nước không có tiền phát cho nhân
viên. Chị Hạnh bây giờ làm nghề buôn chui sách báo nước ngoài. Ở chỗ này thì em
phải giải thích thì anh mới rõ tại sao ngày nay nước mình lại có cái nghề lạ
như vậy. Từ ngày các nước xã hội chủ nghĩa anh em ngưng viện trợ, nhà nước cần
ngoại tệ nên họ đã mở cửa, khuyến khích người Việt ở nước ngoài về thăm quê
hương. Tuy có lệnh kiểm soát gắt gao ở các cửa khẩu hải quan những món hàng
quốc cấm như sách báo tuyên truyền của phe tư bản, nhưng tệ nạn tham nhũng tràn
lan không có cách gì ngăn cản nổi. Vì thế, du khách chỉ cần đút lót vài ba bao
thuốc thơm, chiếc đồng hồ rẻ tiền..v.v... thì cái gì to như con voi qua cũng
lọt. Người dân ở quê nhà bây giờ không ai thèm đọc báo nhà nước, ngày nào ngày
ấy tin tức đều nhai đi nhai lại một luận điệu cũ rích. Người ta còn khôi hài
nói rằng chỉ có tin tức khí tượng là không sặc mùi tuyên truyền, còn hầu hết
đều... cuội! Vì thế dân chúng mới lén lút thuê hoặc mua lại báo chí bằng Việt
ngữ hay bằng ngoại ngữ xuất bản tại nước ngoài.
Gặp em, chị ấy vội kéo vào buồng trong nói nhỏ:
- Này Nga, tôi có món quà này, chắc Nga sẽ thích vô cùng
Em chưa kịp hỏi chi ấy món quà gì, chị Hạnh đã dúi vào tay
em một tờ báo. Chị nói:
- Dấu cho kỹ vào người đi! Về nhà, chờ đêm khuya thanh vắng
rồi hãy đem ra đọc. Ðọc để xúc động vì "người ta" còn nhớ tới mình!
Nhìn trang bìa tờ báo có hình một nửa chiếc máy bay phản lực
đậu trên phi đạo và tên tờ báo là Ngàn Sao, lại nghe chị Hạnh nói bóng gió xa
xôi, em linh cảm một điều gì đó rất mơ hồ. Nửa năm trước, chú Lâm từ bên Mỹ đi
công tác cho hãng về Việt Nam đến thăm em. Chú ấy nhắc đến anh, đến tình cảm
anh vẫn âm thầm dành cho em. Giác quan thứ sáu xui em liên tưởng đến một điều
gí đó (mơ hồ thôi) rằng anh, chàng Phi công Cộng Hòa lãng mạn, có thể đem
chuyện tình hai đứa dệt thành văn? Cầm tờ báo trên tay, em run còn hơn bị B-52
trải thảm hay như hồi sơ tán phòng không ở Việt Bắc. Chị Hạnh trấn an:
- Làm gì mà run dữ vậy? Bề nào Nga cũng là cựu sĩ quan quân
đội nhân dân, công an nào dám đụng đến?
Em run không phải là sợ công an khám xét thấy mình mang món
hàng quốc cấm. Em run vì không hiểu điều dự đoán của mình có phải là sự thực.
Em run vì liên tưởng đến người bạn năm xưa vẫn còn nhớ đến mình. Anh đừng cười
em già rồi mà còn vớ vẩn.
Chị Hạnh là người bạn sát cánh với em vào thời kỳ chiến đấu
dọc Trường Sơn. Chị ấy cũng là con nhà tiểu tư sản như mình, nên em thường nhỏ
to tâm sự trong những lúc dừng quân. Em có kể cho chị ấy nghe về anh, người bạn
học cùng trường thủa thiếu thời.
Về nhà, chờ đêm khuya thanh vắng, mọi người đều đã say giấc
nồng, em len lén đem tờ báo ra chong đèn lên đọc. Em đọc từng trang, rồi em
dừng lại ở bài viết mang tên tác giả Duy Lạc, "Chắc chắn là anh đây
rồi?!" Em tự nhủ: Quả nhiên đúng như điều em dự đoán.
Thời gian trôi nhanh quá anh nhỉ? Thấm thoát đã bốn mươi năm
rồi còn gì? Bao nhiêu tấn tuồng dâu bể diễn ra! Bao nhiêu nước chảy dưới cầu!
Hai mái tóc xanh của đôi trẻ ngày nay đã bắt đầu điểm trắng.
Chiến tranh bùng nổ, anh từ Sàigòn về lánh nạn ở quê nhà.
May mắn thay giặc chưa thể tràn về vùng đất của mình, nên chúng ta có một thời
kỳ bình yên. Khí thế bừng bừng của phong trào giành độc lập xứ sở bốc cao khiến
tất cả thanh niên hăm hở lên đường làm anh vệ quốc quân. Tuy bọn mình còn nhỏ
mà trong trí óc non nớt cũng đã thấy lòng rộn ràng vui thích như đi trẩy hội
ngày Xuân. Em còn nhớ đêm liên hoan, anh hát bài "Nhớ Chiến Khu". Lúc
bấy giờ nghe giọng anh run run, em cứ tưởng anh vì cảm thương nỗi nhớ nhà của
anh vệ quốc quân trong núi rừng thâm u; nào dè anh run ...vì ánh mắt ngưỡng mộ
va say mê theo dõi của em. Thì ra nhãn lực của em cũng khá đấy anh Duy nhỉ?
Dạo ấy lần đầu tiên nghe anh trả bài thầy giáo, em mới để ý
thấy cách phát âm của anh khác với những học trò con trai trong huyện. Chẳng
hạn, "mờ mịt" thì anh phát âm thành "mờ mịch" hay "vui
quá" thành "vui góa". Và còn nhiều chữ độc đáo nữa...
Mới đầu bọn học trò trong lớp, rồi về sau bọn học trò của cả
trường thường nhại cách phát âm ấy để trêu ghẹo anh. Thoạt tiên em cũng cười
hùa theo bọn chúng, nhưng thấy anh chẳng phản ứng gì, mà chỉ nhún vai cười
khỉnh rất là... Sàigòn, tự nhiên em đâm ra thích cái giọng ấy mới kỳ chứ! Mỗi
lần đến giờ học, em đều cầu mong thầy giáo gọi anh lên trả bài để em được nghe
cái giọng ngồ ngộ ấy.
Anh còn nhớ lần đi cắm trại đầu tiên do nhà trường tổ chức
trước vụ Hè 51 không? Lớp mình chia làm bốn toán mà anh thì ở toán A, còn em ở
toán B. Khi đến nơi, ai nấy đều lo căng lều dựng trại của toán mình, trong lúc
đó anh lại chạy sang loay hoay giúp em làm chuyện này chuyện kia. Cử chỉ lăng
xăng của anh có vẻ vụng về, khiến cho em vừa buồn cười vừa cảm động. Vì thế,
buổi tối họp lửa trại, em mới lén dúi vào tay anh củ khoai em vùi trong bếp lúc
nấu cơm chiều. Em còn trêu:
- Trại sinh bên toán B ăn hết "thịch" (thịt) cá
rồi, em chỉ còn củ khoai nóng này tặng anh dùng đỡ cho "dzui"!
Chẳng những anh không giận vì bị em nhái giọng, anh chìa tay
ra cầm củ khoai một cách hồn nhiên, mà miệng còn ấp úng nói gì nghe không rõ,
em bỗng cảm thấy thương anh chi lạ!
Dân trong làng kế cận khu cắm trại, tối đến xong việc đồng
áng cũng ra tham dự trò chơi lửa trại của đám học sinh. Ánh lửa hồng chờn vờn
nhảy múa ngọn thấp ngọn cao, nhịp nhàng lung linh với tiếng đàn guitar bập bùng
của anh tạo nên cảnh tượng kỳ ảo rất liêu trai. Con Thủy, con gái ông Xã Tài;
con Nhạn, con gái ông Lý Trân, ngồi bên em cứ huých cùi chỏ vào hông em từng
chập, mỗi lần chúng nó trông thấy anh gật gà gật gù theo điệu nhạc trầm bổng.
Dường như lúc bấy giờ anh say sưa với âm thanh của từng nốt
nhạc, không thèm biết gì đang xảy ra chung quanh. Khách quan nhận xét, cả huyện
mình đâu có cậu học trò nào chơi đàn ngọt như anh? Chúng nó cũng khoái và để ý
"người Sàigòn" có mái tóc chải bảy ba tango lắm đấy! Anh có biết rằng
anh đã lọt vào mắt xanh của bọn học trò con gái tinh quái ấy không?
Em còn nhớ tính anh ít nói. Trong lúc mọi người ngồi huyên
thuyên, thình thoảng anh chêm một câu pha trò hóm hỉnh mà nhiều khi người nghe
không tinh ý, phải mất ba, bốn ngày sau mới hiểu. Cái tính "nghịch"
ấy ngày nay anh vẫn không bỏ. Trong bài "Giòng Ðời", em vẫn đọc thấy
thấp thoáng cái văn phong đó.
Anh cao lớn, nhưng không gầy như cây sậy và anh đâu có đen
đúa xấu trai như anh tự chế diễu mình trong bài văn? Lại còn bày đặt tự chê
mình học dốt!
Xong màn văn nghệ và đọc tin thời sự về những chiến thắng
công đồn đả viện của bộ đội cụ Hồ cho dân chúng nghe, bọn học trò chạy xuống bờ
biển nô đùa với sóng nước. Em nhớ đêm đó trăng lên muộn và trời trong xanh
không một vẩn mây. Hình như đốm lửa trại cuối cùng tàn lụi rồi trăng mới lên.
Khác với những học trò khác cùng lớp, anh không xuống bờ cát giỡn nước, giỡn
trăng. Em thấy anh ngồi tựa lưng vào một cây dừa lả ngọn và đôi mắt đăm chiêu
nhìn ra trùng khơi. Anh ngồi yên một cách thư thái, tự tại, đẹp như một pho
tượng!
Em biết rồi, người đó đang mơ mộng vì người đó đang yêu?!
Lúc bấy giờ những cơn sóng bạc đầu phản chiếu ánh trăng nhấp nhô vờn nhau xô
vào bờ, có làm cho tim anh xao xuyến, hởi người nghệ sĩ với cây đàn?
Em là con gái, trời ban cho em cảm nhận bén nhạy hơn con
trai. Kinh nghiệm đời trải qua, chắc bây giờ anh đã hiểu rõ điều đó. Hồi ấy,
mới thoáng thấy cử chỉ ân cần và ánh mắt trìu mến của anh nhìn em trong lớp
học, ngoài sân trường, em đã đọc được ý nghĩ thầm kín của anh. Nhưng em là con
gái, đặc biệt vào thời buổi ấy, luân lý và bản tính rụt rè của phụ nữ đâu cho
phép em có một cử chỉ gì gọi là biểu đồng tình, dù trong thâm tâm em cũng rất
cảm mến anh. Cũng có những đêm nằm một mình vẩn vơ bên cửa sổ ngắm trăng, bỗng
nhiên ngửi thấy mùi hoa cau bưởi từ đâu đưa lại, em chợt thèm có anh bên cạnh
để... ngắm anh (!) Hoặc để luồn những ngón tay thon nhỏ của mình vào tóc người
yêu. Ðó là cái rạo rực rất tự nhiên của người con gái ở tuổi dậy thì khi biết
mình đang có một anh chàng đang ngấm nghé.
Em đã đọc đi đọc lại nhiều lần lá thư anh trao. Vì sự bất
cẩn của em, con nhỏ Thủy - con gái ông Xã Tài - đọc trộm lá thư em dấu trong
sách cho mượn, thế là nó đem đi mách lẻo với mọi người, gây ra sự hiểu lầm đáng
tiếc khiến anh sinh lòng oán hận em. Nếu lá thư ấy bị một người bạn gái nào
khác đọc thì chẳng đến nỗi nào. Ðằng này con nhỏ Thủy vốn thầm yêu trộm nhớ
anh, nên khi nó vớ được lá thư là nó kháo ầm lên để anh phải thẹn thùng với đám
bạn gái của em và hai bà chị họ. Nghĩ lại, em chẳng phiền trách gì nó. Âu cũng
là tại sợi chỉ hồng không se duyên cuộc tình chúng mình!
Ngày anh cầm tay em lần đầu (và cũng là lần cuối), em đã
khóc, đã hết lòng gạn hỏi tại sao anh bỏ học và cố tình lẩn tránh em. Anh cứ
lầm lì im lặng. Không ngờ bữa đó anh đã quyết định xuống tàu trở lại chốn phồn
hoa. Tuổi trẻ thường hay đặt tự ái quá cao! Anh đi biền biệt để lại cho em nỗi
nhớ đoạn trường. Em thẩn thờ biếng nhác việc học hành và công việc trong nhà.
Ba mẹ không hiểu chuyện cứ rầy la. Bỗng nhiên em cũng sinh lòng trách cứ anh.
Anh đã từ phương xa lại, mình gặp gỡ nhau, anh gieo vào lòng em một vết thương,
rồi anh lẳng lặng ra đi không một lời từ biệt. Bạn bè em một đôi đứa đem lòng
thương hại, vài đứa trêu ghẹo em mang mối sầu tương tư. Em lại càng giận anh
hơn.
Năm 1954, hiệp định Giơ-ne-vơ chia đôi đất nước. Một số
người trong làng xã tập kết ra Bắc. Gia đình em vẫn ở lại vì thuộc thành phần
địa chủ. Tổng Thống Diệm về nước, đẩy mạnh chiến dịch Tố Cộng. Gia đình em
không bị ảnh hưởng gì, vì người ta biết thời ấy ai cũng chống Tây. Nhưng chỉ có
một số cán bộ Tố Cộng của ông Diệm lợi dụng quyền thế, thấy em có nhan sắc nên
họ gây nhiều khó dễ để cưỡng bách em trao thân gởi phận. Nếu em liều mình nhắm
mắt đưa chân, chắc chắn em sẽ cũng được yên thân. Nhưng tính em ương ngạnh,
không chấp nhận sự hà hiếp, em bèn tìm đường lên núi để rồi ngả về phía bên kia.
Thân gái dậm trường, liều mình bỏ gia đình ra đi đến phương trời vô định, em
nào muốn làm một cuộc phiêu lưu? Nhưng định mệnh nghiệt ngã đã đẩy em thành một
kẻ ruồng bỏ quê hương!
Anh Duy yêu dấu,
Nhiều đêm em đã khóc, vì nỗi bơ vơ của mình nơi xứ lạ quê
người. Em nhớ đến anh thật nhiều. Nhớ đến kỹ niệm của những đêm trăng ở làng
quê mình, của những buổi chiều hai đứa rong chơi lang thang trên bờ ruộng lúa
vừa mới gặt, của mùi hương ngai ngái từ gốc rạ thoảng đưa trong gió. Và em còn
nhớ đến cái giọng Sàigòn ngồ ngộ của anh nữa!
Sự đãi ngộ ở miền Bắc không tốt đẹp như những gì mà
"người ta" đã ngọt ngào dụ dỗ em. Cũng như những bộ mặt đàn ông nham
nhở (xin lỗi anh) tìm đủ mọi cách chiếm đoạt em. Ở vào bước đường cùng, lần này
em đành nhắm mắt đưa chân. Em kết hôn với một ông sĩ quan già hơn em mười lăm
tuổi. Trong bài "Giòng Ðời" anh kể rằng em làm lẽ một viên tướng già
là không đúng sự thực. Nhưng mà thôi, không sao! Làm vợ chính thức hay làm lẽ,
số phận em vẫn hẩm hiu "bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi!"
Chiến tranh ngày càng lan rộng và khốc liệt. Phi cơ oanh tạc
hầu như mỗi ngày. Ða số nhân dân miền Bắc đều mong mỏi được quân đội miền Nam
giải phóng, vì họ hết chịu đựng nổi đói khổ và cuộc sống hắc ám, rình rập. Em
là người miền Nam tập kết muộn. Tập kết vì tưởng mình sẽ đến một nơi như thiên
đàng, chứ không phải vì lý tưởng hay bị huyễn hoặc bởi cái chủ nghĩa hứa hẹn
không còn cảnh người bóc lột người! Em chỉ tha thiết một điều: Chiến tranh sớm
chấm dứt, hòa bình mau trở lại để em được quay về xóm làng xưa. Em tình nguyện
xung phong đi chiến trường B (tức là xuôi Nam ) với hy vọng nhìn lại Bố Mẹ già
và đàn em dại. Em lên đường như một người tìm về nơi chôn nhau cắt rốn, chứ
không phải là kẻ lên đường "làm nghĩa vụ quốc tế" như người ta cổ võ
đề cao. Trở về đó, em lại nghe tin đồn phong phanh rằng anh đã trở thành người
phi công khu trục của chính quyền Sàigòn. Chao ôi! có lần nào anh say sưa oanh
kích mà dưới ấy là chỗ đóng quân của em? Nếu chẳng may bị trúng đạn phòng
không, anh nhảy dù xuống và em là người băng bó cho anh, thì không hiểu bọn
mình phải xử trí ra sao trong tình huống ấy? May mà điều ấy không bao giờ xảy
ra để chúng ta khỏi bị ngỡ ngàng.
Có lần em nhặt được tờ truyền đơn kêu gọi chiêu hồi từ trên
phi cơ thả xuống. Em vội dấu kỹ tờ truyền đơn vào lần túi áo trong để chờ dịp
thuận tiện là trốn thoát, nhưng cơ hội không bao giờ đến với em cả!
Khi miền Nam được "giải phóng", em nghĩ rằng đây
là cơ hội em có thể tìm gặp người bạn tình năm xưa. Em biết rằng gặp nhau thì
đôi ta mỗi đứa ván đã đóng thuyền, không còn hy vọng gì chấp nối, nhưng ít nhất
mình cũng còn được thấy nhau sau mấy mùa chinh chiến. Niềm hy vọng ấy vội tan
biến khi em biết rằng anh đã ra đi nước ngoài. Tâm tình em xen lẫn hai nỗi
buồn, vui: Buồn vì không gặp được anh và vui vì anh không phải rước cảnh tù
đày. Anh còn nhớ Loan, em gái của em. Nó kết hôn với Cảnh, một người Thiếu tá
trong quân đội Cộng Hòa. Chồng nó bị đưa đi "học tập cải tạo", rồi
chết vì lao lực trong rừng thiêng nước độc và vì thiếu dinh dưỡng. Loan nhờ
chồng em can thiệp cho Cảnh. Như anh biết đấy. Tuy chồng em là tướng Việt cộng
mà cũng đành bó tay bất lực. Từ đó Loan không bao giờ nhìn mặt em nữa. Chị em
cật ruột bỗng hóa thành kẻ thù. Nỗi khổ tâm ấy do ai gây ra, mà một mình em
phải hứng chịu sự khinh khi của gia đình? Tại sao em phải chịu nhiều điều oan
nghiệt thế hở anh Duy?
Năm kia, chú Lâm về Sàigòn, chú ấy kể rất nhiều chuyện về
anh. Em vô cùng xúc động vì anh vẫn giữ được trong ký ức hình ảnh và tình cảm
trân trọng đối với người bạn gái đầu đời. Vận nước điêu linh, thế hệ chúng mình
chẳng may phải hứng chịu nhiều thua thiệt. Thật là vô lý khi hai kẻ yêu nhau
trở nên vô tình quay mũi súng bắn vào nhau. Ước mong sao những lớp người thuộc
thế hệ mình nhìn rõ chân lý để cùng nhau xây dựng lại xứ sở hoang tàn bởi một
thứ chủ nghĩa ngoại lai phi nhân. Mình phải có bổn phận nói rõ cho con cháu nên
lấy thương yêu, chứ không phải hận thù, bù đắp những lỗi lầm của người đi
trước. Có như thế thì mới hàn gắn được những đổ vỡ lớn lao trong quá khứ.
Ðúng bốn mươi năm trước, dưới rặng dừa ở làng quê, anh e ấp
trao em lá thư tỏ tình. Anh nao nức chờ đợi hồi âm. Em chưa kịp hồi âm thì
không may xảy ra chuyện hiểu lầm. Bốn mươi năm sau, (nhờ đọc được bài văn của
anh trên báo), từ phương trời này, một người đàn bà góa bụa và mái tóc đã bắt
đầu điểm sương lại ngồi viết thư cho người bạn tình xa cách nửa vòng trái đất
để kể lể chuyện đời. Xin cám ơn anh đã cho em một chút nắng trong buổi chiều
tàn, "Một Chút Mặt Trời Trong Ly Nước Lạnh!" Ðời em truân chiên đã
gặp nhiều bất hạnh, nhưng kể từ khi đọc những dòng tâm tư của anh trên trang
báo, em cảm thấy được an ủi phần nào. Bây giờ thì em mới biết ở nơi cuối trời
xa thẳm kia có một chàng trai Sàigòn thủa nào vẫn còn giữ trong tim hình ảnh và
kỹ niệm đằm thắm của người yêu ban đầu.
Thư viết cho anh đã khá dài. Những giọt nước mưa trên mái
nhà cũng đã thôi gõ đều đặn xuống tấm tôn. Ðêm đã xuống từ lâu. Cảnh vật yên
lặng như tờ, nhưng dường như trong tiềm thức em vẫn nghe tiếng sóng biển rì rào
và âm thanh xào xạc của những ngọn lá dừa cọ xát vào nhau. Biết bao giờ hai
chúng ta có thể lại cùng nhau dạo chơi hóng gió chiều và nghe sáo diều trên
đường làng quê cũ anh nhỉ? Ấy chết! Em lại lẩn thẩn mất rồi! Ðừng! Chúng mình
không nên gặp lại nhau để anh còn giữ trong trí nhớ hình ảnh con bé Nga mười
mấy tuổi, má lún đồng tiền và nụ cười răng khểnh.
Em xin dừng bút. Cầu chúc anh dồi dào sức khỏe và gia đình
gặp nhiều sự may mắn, an khang, thịnh vượng. Và xin anh nhớ cho rằng ở nơi xứ
sở nghèo khó này vẫn có một người luôn luôn thương nhớ anh.
Thân ái,
Em gái anh, Nga
Tái bút: Ðể tránh sự kiểm soát của nhà nước, em trao lá thư
này cho một sĩ quan sắp sang Mỹ theo diện H.O. và nhờ ông ta gửi đến chú Lâm
bằng đường bưu diện.
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.