DÂN
VIỆT NGU SI VÀ HÈN HẠ
Bằng
Phong Đặng văn Âu
Không! Không phải tôi nói câu “Dân
Việt Ngu Si và Hèn Hạ”. Tôi được người thầy giáo dạy Văn bảo: “Em hãy bình
giải bốn câu mở đầu trong bài thơ của cô giáo Trần thị Lam nói về đặc tính
người Việt”. Vâng lời thầy, tôi xin đem những sự kiện lịch sử để bình giải:
Đất nước mình ngộ quá phải không
anh?
Bốn ngàn tuổi mà dân không chịu lớn!
Bốn ngàn tuổi mà vẫn còn bú mớm
Trước những bất công vẫn không biết kêu đòi…”
Thông thường, một đứa trẻ từ 18 đến
21 tuổi là đã trưởng thành để tự lập, không còn ăn bám vào cha mẹ. “Bốn ngàn
tuổi mà không chịu lớn” là một quái thai, còn cứ nằm ngữa ôm bình sữa để bú thì
càng quái đản hơn. Hãy tạm xét cái ngu từ thời vua Tự Đức đến năm 2021. Ông
Nguyễn Trường Tộ được vị Cố Đạo đưa đi du học nước ngoài, lúc về nước cặm cụi
viết bản Điều Trần dâng lên vua nhằm cải cách đường lối cai trị, từ Ngoại giao,
Quốc phòng đến Kinh tế để bắt kịp nền văn minh thế giới. Vua quan đọc xong,
liền phê bốn chữ “Yêu ngôn hoặc chúng” (Lời ma mị mê hoặc lòng người).
Tôi hỏi thầy dạy môn sử tại sao các quan không đề nghị vua ra lệnh ông Nguyễn
Trường Tộ dẫn một phái đoàn ra ngoại quốc để tìm hiểu thực tế? Thầy đáp: “Có
lẽ các quan sợ canh tân đất nước, thì các quan mất chỗ đứng trong triều đình”.
Phải chi vua Tự Đức sáng suốt như Minh Trị Thiên Hoàng của nước Nhật, thì dân
mình đâu có bị Thực dân Pháp đô hộ ngót 100 trăm? Nếu tôi nói vua Tự Đức ngu,
chắc chắn tôi sẽ bị kết tội hỗn hào với tiền nhân? Nhưng biết dùng chữ gì khác
hơn để mô tả sự tối dạ của vua quan lúc bấy giờ?
Nhiều độc giả ở Hải ngoại tỏ ra hết
sức thích bài thơ của cô giáo Trần thị Lam, nhưng đọc chỉ để mà đọc, giống như
đọc một bài thơ tiêu khiển, chứ ngu vẫn tiếp tục ngu. Không những chê dân tộc
mình ngu, cô giáo Lam còn chê dân mình hèn nữa cơ! Đấy là câu thơ “Trước
những bất công vẫn không biết kêu đòi”. Cô giáo Lam không cần sự
nghiệp văn chương đồ sộ. Chỉ cần làm một bài thơ, cô cũng đủ đi vào văn học sử
bằng cửa chính. Giống như nhà thơ tí hon Minou Drouet viết: “Khi cơn gió mua
Thu thổi nhẹ qua, hoa Mimosa rung chuông”. Thấy cánh hoa Mimosa có hình
dáng như một cái chuông lung lay mà cô bé đã sáng tác nên câu thơ đó, quả là
thiên tài!
Khi xưa, Bà Trưng Trắc là phận nhi
nữ, nhưng giận Tô Định đã giết chồng mình, bèn rủ em Trưng Nhị cùng chiêu binh
mãi mã để trả thù cho chồng, đền nợ cho nước. Vì thế, đời sau mới có câu: “Bà
Trưng quê ở Châu Phong, Giận người tham bạo, thù chồng chẳng quên”.
Hoặc Tướng quân Trần Bình Trọng bị quân địch bắt, dụ dỗ phong chức, nhưng Ngài
đã giận dữ quắc mắt, thét vào mặt kẻ thù: “Ta thà làm quỷ nước Nam, còn
hơn làm vương Đất Bắc”. Sự giận dữ, sự khí khái đó làm cho hậu thế noi gương để
trưởng thành. Cái giận của hai vị anh hùng nêu trên là cái giận Chính Khí. Còn
thời nay, chúng ta chỉ thấy phần lớn là giận Nộ Khí!
Cái giận Chính khí là cái giận của
bậc chính nhân, quân tử. Còn cái giận Nộ Khí là cái giận của đứa phàm phu tục
tử, tiểu nhân giống như chị đàn bà bị mất gà, chửi từ làng trên đến xóm dưới:
“Cha tiên sư cao tằng, tổ khảo, thúc
bá, đệ huynh, cô dì, tỉ muội thằng cha mày đã bắt con gà nhà tao! Con gà ở nhà
tao là con gà, con qué. Nó về nhà mày là con cú, con cáo. Nó mổ gan, lòi ruột
những đứa ăn miếng thịt gà nhà tao. Nó là thần nanh, đỏ mỏ rút gan, rút ruột
nhà mày ra. Mày không thả con gà nhà bà ra, bà đóng ghế ba tháng mười ngày,
buổi sáng bà chửi, buổi tối bà chửi, buổi trưa bà hú, bà nguyền, bà rủa cho cây
vàng lá, cho quả chột thui, cho thần Trùng đến rút từng khúc ruột của cha ông,
vợ con nhà mày ra! Tao hú ba hồn, bảy vía thằng đàn ông, ba hồn chín vía con
đàn bà đã bắt con gà nhà tao. Tao gọi ông cầm cờ xanh đứng đầu ngõ, ông cầm cờ
đỏ đứng sau nhà, ông cầm cờ vàng bên hữu, ông cầm cờ trắng bên tả yểm cho nhà
mày đẻ con ra thì ngược, sinh cháu ra thì ngang vì đã dám ăn con gà nhà
tao!...”.
Từ khi chủ nghĩa cộng sản xuất hiện
trên đất nước ta, nền “văn hóa chửi” khá thịnh hành, vì Hồ Chí Minh gửi cán bộ
sang Tàu học cách chửi để về đấu tố cha mẹ trong Cải Cách Ruộng Đất. Nhà giáo
kiêm nhà văn Nguyễn công Hoan ở Miền Bắc làm thơ chửi nhà báo lão thành Phan
Khôi bằng một bài thơ rất hỗn hào và rất tục, có câu: “Văn chương đù mẹ
thằng cha bạc”. Dưới thời đại Hồ Chí Minh, xã hội Việt Nam mới có tiệm Phở
Chửi nằm cạnh lăng Ba Đình. Noi gương nền “văn hóa chửi” của Việt Cộng, Việt
Nam Cộng Hòa cũng có những đứa đầu đường xó chợ, du thủ du thực trà trộn vào xã
hội, sống bằng nghề chửi mướn rất bẩn thỉu, rất vô giáo dục. Chúng chửi cả
Phật, cả Chúa, chửi bất cứ ai đụng vào nồi cơm của chúng! Đến vị Tổng thống yêu
nước, đạo đức như ông Ngô Đình Diệm đến nay vẫn còn bị chúng chửi. Kinh thật!
Hôm qua, một người đàn anh rất nổi
tiếng, mà nêu danh tính anh ra, ai nấy đều ngưỡng mộ cái nhân cách lớn của anh,
gọi điện thoại cho tôi và dạy bảo tôi sau khi đọc bài “Cái Thời Đại Chó Đẻ”
mới được đưa lên diễn đàn: “Anh đọc hầu hết những bài viết của em, không
những đọc một lần, mà rất nhiều lần. Anh công nhận em có trí nhớ rất tốt, lý
luận đâu ra đó, không ai có thể bắt bẻ được. Nhưng anh khuyên em nên hành văn
mềm mại, thì mới có sức thuyết phục độc giả để người ta theo mình. Như vừa rồi
em tiết lộ cô Nga trong bài “Hồi Âm Dòng Đời” chính là em. Nói thực,
trước đây anh đã đọc bài “Hồi Âm Dòng Đời” đến hai ba lần, vì thấy thương
cô Nga ấy quá! Nay mới biết cô Nga ấy chính là em, thì cậu em anh cũng biết
viết văn đấy chứ! Vậy tại sao em không viết những bài bằng giọng văn mềm mại dễ
thương giống như bài “Hồi Âm Dòng Đời?” thì có phải đạt hơn không?
Tôi đáp: “Thưa anh, em không có
chủ đích thuyết phục ai đi theo mình. Em không hiệu triệu Quốc dân. Em chỉ muốn
lay thiên hạ dậy, đừng mê ngủ nữa và cũng đừng chạy đua theo sự phù phiếm của
các trưởng giả học làm sang! Đồng bào ta bên kia bờ Đại dương bị Việt Cộng đối
xử như con chó, mà ở bên này mình nhởn nhơ sao đành? Ông nhà báo Sức Mấy Đinh
Từ Thức châm biếm các cựu Quân nhân Quân lực Việt Nam chỉ biết mặc quân phục,
lo chào cờ, hát Quốc ca, kéo cờ lên, hạ cờ xuống, phủ cờ, xếp cờ, mà anh em
Quân nhân không thấy xấu hổ, thì em phải lên tiếng nhắc nhở họ thôi! Đối với
cộng sản, chỉ có các nhà trí thức mới dùng lời nho nhã. Còn em là lính mà “cổ
cồn cà vạt” hô xung phong thì người ta sẽ cười vào mặt ngay. Không ai dùng dao
bổ cau để giết trâu, anh ạ!”
Tôi xin thuật mẩu chuyện dưới đây để
độc giả hiểu tính khí của người bình giải bài thơ của cô giáo Trần thị Lam.
Năm 1988, Đại sứ Bùi Diễm đã thuyết
phục các anh Đặng văn Sung, Nguyễn Tôn Hoàn, Hà Thúc Ký, Nguyễn Ngọc Huy, Đặng
văn Đệ, Đào Tiến, Nguyễn văn Canh tổ chức cuộc họp mặt Thống Nhất Đại Việt. Ba
thành viên trẻ tuổi được tham dự, gồm có Lê Tấn Trạng, Nguyễn văn Ánh và tôi.
Cuộc họp diễn ra ở nhà anh Nguyễn Quan Vĩnh – một người bạn cùng khóa phi công
với tôi, cũng là đảng viên Đại Việt – hiện sống tại San Jose, California. Cụ Cung
Đình Quỳ, 92 tuổi, Cựu Bộ trưởng Canh Nông trong Nội các Trần Trọng Kim, tuy
không giữ chức vụ quan trọng nào trong Đảng, nhưng vì cao niên nhất, nên được
các anh bầu làm Chủ tọa phiên họp. Cụ Quỳ còn khỏe mạnh, tinh thần minh mẫn.
Sau phần nghi thức khai mạc trang nghiêm, cảm động, mọi người ngồi vào cái bàn
dài hình chữ nhật khá lớn. Đợi mọi người an vị, Cụ Quỳ đứng phía đầu bàn, bắt
đầu dõng dạc phát biểu. Không ngờ một Cụ già gần 100 tuổi, nhưng đôi mắt vẫn
còn sáng quắc và giọng nói thật hùng hồn. Với tư cách là bậc đàn anh, Cụ khiển
trách các anh Đặng văn Sung, Nguyễn Tôn Hoàn, Hà Thúc Ký, Bùi Diễm, Nguyễn Ngọc
Huy … đã không đoàn kết nhau, khiến cho đất nước bị rơi vào tay kẻ thù. Các anh
lớn đều khóc vì cảm thấy có tội với lịch sử. Cuối cùng, Cụ Quỳ kết luận: “Kể
từ nay các anh hãy đoàn kết một lòng, nắm tay nhau phất ngọn cờ Đại Việt giải
phóng đồng bào sớm thoát khỏi vòng nô lệ cộng sản”. Các anh lớn quay sang
thân ái bắt tay nhau và lần lượt bày tỏ sự hối hận. Cử chỉ bắt tay thân ái đó
và những lời tự thú của các anh, tôi tin các anh thành thật cam kết giữ lời thề
giải phóng quê hương.
Đến phiên tôi được phát biểu: “Thưa
các đồng chí niên trưởng, chúng em là kẻ hậu sinh, được các anh lớn cho phép
ngồi vào bàn tham dự buổi quyết định lịch sử là một vinh dự rất lớn. Vì lòng
yêu nước, bọn trẻ chúng em đã nối bước các anh để thể hiện lý tưởng Dân Tộc
Sinh Tồn do đảng trưởng Trương Tử Anh khởi xướng. Là một trong những đứa em
út, gốc quân nhân, tính tình bộc trực thẳng thắn, xin quý anh lấy lượng khoan
hồng tha thứ cho đứa em được phép nói những cảm nghĩ hết sức chân thành. Các
anh xuất thân con nhà gia thế, học trường do Pháp đào tạo, nhưng các anh đã dấn
thân làm cách mạng, đi giữa hai lằn đạn của Thực dân và của Cộng sản. Chúng em
ngưỡng mộ các anh vô cùng. Chính vì yêu lý tưởng “Dân Tộc Sinh Tồn” do
đảng trưởng Trương Tử Anh đề xướng, bọn trẻ chúng em tình nguyện tuyên thệ vào
đảng để nối gót các anh.
Vừa rồi, những lời khiển trách đanh
thép của Cụ Cung Đình Quỳ làm cho em có cảm tưởng đấy là lời của đảng trưởng
Trương Tử Anh vọng xuống từ cõi trên. Các anh đã khóc, đã nắm tay nhau thân ái
khiến trong lòng em trỗi lên niềm hy vọng. Em hoàn toàn đồng ý với những lời
đồng chí Niên trưởng Cung Đình Quỳ phát biểu, duy chỉ có một điều là em không
đồng ý”. Nói tới đó, tôi ngừng. Mọi người trong bàn họp hướng về phía tôi để
chờ nghe điều gì mà đứa em dám không đồng ý. Tôi tiếp tục: “Điều em không đồng
ý là Cụ Quỳ yêu cầu các anh phất ngọn cờ Đại Việt. Tại sao không là ngọn cờ Dân
Tộc? Tại sao chúng ta không thoát ra khỏi cái tinh thần cục bộ, để mở vòng tay
kết hợp với các đoàn thể khác? Nhân tiện được dịp gặp tất cả các anh, cho phép
em được hỏi anh Nguyễn Tôn Hoàn và anh Hà Thúc Ký, có phải hai anh đã đứng ra
nhận lời tuyên thệ của Đại tá Nguyễn văn Thiệu sau cuộc đảo chánh năm 1963 tại
Bộ Tổng Tham Mưu?” Anh Hoàn gật đầu xác nhận. Tôi tiếp tục: “Theo điều lệ đảng,
một khi đảng viên từ bỏ đảng, sang sinh hoạt đảng khác, thì bị đảng khai trừ.
Tại sao ông Nguyễn văn Thiệu lập ra đảng Dân Chủ mà các anh không có một biện
pháp nào đối với ông Nguyễn văn Thiệu vậy? Anh Nguyễn Ngọc Huy lập ra
đảng Tân Đại Việt, có đa số đoàn viên là người Miền Nam. Anh Hà Thúc Ký lập ra
Đại Việt Cách Mạng thì đa số đoàn viên là người Miền Trung, Miền Bắc. Tại
sao các anh xử sự giống như Cộng sản có Đệ Tam và Đệ Tứ vậy? Hai anh chỉ nghĩ
đến cá nhân hai anh, mà quên nghĩ đến đàn em. Trước tình trạng chia rẽ của hai
anh, chúng em giống như những đứa con trong một gia đình có cha mẹ ly dị nhau.
Theo cha thì sợ mẹ buồn; theo mẹ thì sợ cha buồn. Có lần em nghe hai sĩ quan
Không Quân bên phía anh Huy nói rằng hãy coi chừng thằng Âu, nó là người của Hà
Thúc Ký. Em đã gọi họ lại để giáo hóa: Hai cậu là đàn em của tôi trong Không
Quân, tại sao dám gọi tôi là thằng? Tại sao hai cậu xem tôi như kẻ thù vậy? Hai
cậu muốn là người của anh Huy, thì mặc kệ các cậu. Còn tôi, tôi là người cùng
chí hướng với anh Hà Thúc Ký, chứ đâu phải là đàn em của ai? Hãy bỏ cái tư
tưởng “người của” đi nghe chưa? Tham gia vào đảng là để góp sức nhau cứu nước,
đâu phải là một phường xôi thịt, mà phải làm đàn em để hưởng lợi?
Thưa các anh,
Theo em, thứ nhất, các anh chống
Tổng thống Ngô Đình Diệm là sai. Các anh không phải đi giữa hai lằn đạn giữa
Pháp và Việt Cộng như thời kỳ trước năm 1954, tại sao các anh không hợp tác với
Tổng thống Ngô đình Diệm, cùng nhau tiêu diệt cộng sản để trả thù cho đảng
trưởng Trương Tử Anh bị Việt Cộng thủ tiêu? Thứ hai, các anh im lặng việc ông
Thiệu phản đảng đã đành, tại sao các anh không dùng thế lực đảng để ngăn chặn
tình trạng mua quan bán chức, tham nhũng của chính quyền ông Thiệu? Thứ ba, tại
sao các anh im lặng trước việc anh em nhà Hoàng Cơ Minh lợi dụng niềm tin phục
quốc của đồng bào để khủng bố lương dân?
Theo em, các anh đã tự làm mất tư
thế lãnh đạo quần chúng vì những sự im lặng đó. Hôm nay chủ đích cuộc họp Thống
nhất Đại Việt là để giành lại tư thế lãnh đạo quần chúng hay chỉ làm cái công
việc kết hợp có tính cách hình thức, nặng phần trình diễn, để chứng tỏ với quần
chúng đã có sự đoàn kết giữa anh Ký và anh Huy? Xin các anh vui lòng cho chúng
em biết”.
Những vấn đề tôi đặt ra trong Hội
nghị làm cho không khí buổi họp bị chìm vào trạng thái tê liệt. Không anh nào
trả lời những vấn đề do tôi đặt ra. Vừa lúc đó, anh bạn chủ nhà bước vào, nói:
“Thưa quý anh, bây giờ là 12 giờ trưa, xin quý anh dừng cuộc họp và mời quý anh
dùng bữa trưa một chốc”. Mọi người thở phào, đứng lên, bước ra sân. Thức ăn,
thức uống đã được dọn sẵn trên hai cái bàn đặt giữa sân, mọi người dùng bữa
theo kiểu “self service”. Anh tôi, bác sĩ Đặng văn Sung, vẫy tay gọi tôi lại
gần, nhỏ nhẹ nói: “Những điều chú mày trình bày vừa rồi, anh không thấy chú nói
điều gì sai, nhưng chú mày vẫn quen thói nhà binh, chú mày làm mất lòng anh
Huy, anh Ký lắm đó.” Tôi lễ phép đáp: “Thưa anh, đáng lý ra cuộc họp Thống Nhất
Đại Việt phải diễn ra từ năm 1963, sau khi đám Tướng lãnh lật đổ chế độ. Hôm
nay đã là năm 1988 mới họp là quá trễ. Cuộc họp hôm nay là để mổ xẻ vấn đề vì
sao Đảng Đại Việt từng có cơ hội cầm quyền, đã không làm nổi sứ mệnh bảo vệ Đất
Nước. Em thiết nghĩ rằng phàm mổ xẻ, ắt phải đau đớn. Nếu không chịu đựng nổi
sự đau đớn thì làm sao cứu nước? Em rất kính trọng các anh, nhưng em đã thưa
trước là cho em được phép trình bày cảm nghĩ chân thực của em. Em cũng có khả
năng làm đẹp lòng người các anh lớn, nhưng bốc thơm nhau trong hoàn cảnh này
thì lợi ích gì?”.
Vốn kính trọng anh mình (hơn tôi 24
tuổi) như một người cha, nhưng trước vấn đề Đất Nước giống như đứng trước bàn
thờ Tổ Quốc, tiền bối hay hậu bối đều có bổn phận và trách nhiệm như nhau. Vì
quan niệm như thế, tôi không ngần ngại nói lên suy nghĩ của mình. Đây là lần
thứ hai tôi bị anh tôi khiển trách. Vào cuối năm 1974, Chủ nhiệm Đặng văn Sung
tổ chức buổi tiếp tân tại Tòa soạn Nhật báo Chính Luận. Tôi xin anh tôi cho
phép tham dự, mặc dầu tôi chẳng phải là nhà báo, mà chỉ muốn biết các chính
khách nghĩ gì trong tình hình dầu sôi lửa bỏng lúc bấy giờ. Lần đầu tiên, tôi
được giáp mặt Luật sư Trần văn Tuyên. Tôi đến gần ông, tự giới thiệu và lễ phép
mở lời: “Thưa Luật sư, em là quân nhân, ít có hiểu biết vấn đề chính trị. Em
rất ngưỡng mộ tài hùng biện của Luật sư. Xin phép Luật sư cho em hỏi một câu
được không ạ?” Luật sư Tuyên nhoẻn nụ cười tươi, lộ vẻ bậc thầy: “Được! Anh cứ
hỏi”. Tôi nói: “Luật sư là nhà chính trị già dặn, có hiểu biết uyên bác, tại
sao Luật sư cổ súy thành phần thứ ba? Trong khi Luật sư thừa biết đối với cộng
sản ngay cả thành phần thứ hai, chúng cũng không chấp nhận. Giữa Đệ Tam và Đệ
Tứ cùng theo chủ nghĩa Karl Marx, mà chúng giết nhau như ngóe. Trotsky đã trốn
chạy sang Argentine, thay hình đổi dạng mà gián điệp của Staline theo tận nơi,
lấy búa chẻ đôi đầu. Làm sao Việt Nam Cộng Hòa được bọn Việt Cộng khát máu
buông tha?” Qua một hồi trao đổi, nhận thấy lập luận của Luật sư Tuyên trả lời
câu hỏi của tôi có tính cách “tình tự dân tộc”, hơn là lý lẽ của người đầy kinh
nghiệm chống cộng sản khát máu, không đủ sức thuyết phục, tôi hơi lớn tiếng.
Anh tôi – bác sĩ Đặng văn Sung – không muốn em mình vô lễ với Luật sư, tiến lại
gần và kéo tôi tới bàn rượu lấy rượu uống. “Chú mày nóng nảy quá! Muốn làm
chính trị thì phải điềm đạm, khôn ngoan”. Tôi đáp: “Thưa anh, em không làm
chính trị! Em muốn các anh phải làm cuộc cách mạng để em theo, để cứu nước!”.
Trở lại bàn họp, tôi ngồi yên lặng,
không có ý kiến gì khác để đóng góp. Tiến sĩ Luật khoa Nguyễn văn Canh được các
anh Hoàn, anh Ký, anh Huy giao trách nhiệm soạn thảo thể thức và đường lối kết
hợp hai đảng. Sau cuộc họp ngày đó, tôi “bị” các anh cho ra rìa trong các cuộc
họp sau, vì suy nghĩ của tôi không giống ai. Tới khi đọc thấy tin trên báo, tôi
mới biết hai anh Nguyễn Tôn Hoàn và Hà Thúc Ký đều giữ chức “Đồng Chủ tịch”.
Thiếu tướng Lê Quang Lưỡng, Tư lệnh Sư đoàn Nhảy Dù, gọi điện thoại cho tôi
bằng giọng chán nản: “Buồn quá Âu ơi! Tại sao hai anh Hoàn, anh Ký không nhường
nhịn nhau để lo việc lớn, mà phải là Đồng Chủ tịch? Có lẽ em với anh nên làm
đơn ra khỏi đảng!”. Tôi đáp: “Nếu muốn ra khỏi đảng, thì chỉ cần nghỉ sinh hoạt
là đủ. Đâu còn lãnh tụ nào anh em mình cảm phục để nạp đơn?” Chỉ một thời gian
ngắn kết hợp, hai bên “Đồng Chủ tịch” ra tuyên cáo khai trừ lẫn nhau. Thật đáng
xấu hổ!
Các anh lớn đến nay đều đã qua đời.
Chỉ còn Tiến sĩ Nguyễn văn Canh, anh Lê Tấn Trạng, anh Nguyễn văn Ánh và tôi
sống sót, chắc chắn họ vẫn còn nhớ tôi đã phát biểu những gì trong cuộc họp. Hy
vọng anh chủ nhà Nguyễn Quan Vĩnh còn giữ cuộn băng ghi âm ngày hôm đó.
Năm 1964, trong buổi thuyết trình
cuộc hành quân Cầu Không Vận, dù chỉ là một Trung Úy, tôi đã đứng lên đề nghị
cấp chỉ huy đổi tên chiến dịch “Kỳ-Duyên-Mai” (tên của vị Tư lệnh, con gái và
phu nhân) bằng phương danh của một vị anh hùng trong lịch sử, vì không muốn
địch quân lợi dụng để tuyên truyền. Hai nhân vật có mặt trong buổi thuyết trình
vào năm đó là Thiếu tá Nguyễn Uông ở Paris, Thiếu tá Nguyễn Mộng Khôi ở Orange
County hãy còn sống để chứng thực những gì tôi kể. Anh em quân nhân chúng ta
hãnh diện là Người Lính Việt Nam Cộng Hòa, chứ không là lính của Thiệu-Kỳ như
bọn Việt Cộng gọi xách mé. Chỉ có những đứa ngu vênh váo tự hào là “Bộ Đội Cụ
Hồ”, không biết xấu hổ mới hãnh diện.
Thuật lại tình tiết cuộc họp Kết Hợp
Đại Việt năm 1988 và mẩu chuyện trong phòng họp Hành quân Cầu Không Vận năm
1964, không phải tôi có ý tự đề cao cá nhân. Tôi chỉ muốn độc giả hiểu bản chất
của tôi là thế, ăn ngay nói thẳng, vì nghĩ rằng sự góp ý của mình là chính đáng
để bảo vệ lý tưởng mà mình theo đuổi thì có gì sai mà phải giả bộ khiêm tốn?
Vài anh em cho rằng tôi là thằng dại! Có thể đúng, vì tôi không biết mưu cầu
lợi lộc cho bản thân.
Chủ tịch Hà Thúc Ký thương yêu tôi
như một thằng em trung tín. Ông hỏi: “Cậu có muốn ra tranh cử Dân Biểu không?
Anh sẽ đưa cậu ra”. Tôi đáp: “Anh nên dành cho những anh em đồng chí có công
với đảng. Em thích nghề bay bổng hơn”. Một khi ông Chủ tịch ưu ái hỏi mình như
thế, chắc chắn ông sẽ đưa mình ra tại địa phương nào mà đảng có thế lực quần
chúng nhất. Xác suất trúng cử sẽ rất cao. Do sự từ chối của tôi, ông Chủ tịch
cử bà Kiều Mộng Thu (vợ anh Sắc, gốc người Miền Nam) ra tranh cử ở Huế và đắc
cử. Nghị sĩ Tôn Thất Uẩn ở Anh quốc và bà Hà Thúc Ký ở Mỹ, đã nghe câu
trả lời của tôi. Hai vị đang còn sống để xác minh chuyện này. Tiếc rằng quá yêu
cái nghiệp bay bổng, tôi cứ bám lấy cái nghề. Phải chi nhận ra tranh cử Dân
Biểu với quyền bất khả xâm phạm, tôi nghĩ mình cũng có thể làm diễn đàn Quốc
Hội dậy sóng vì cái tính bạo phổi của mình.
Thú thực, trong thời gian chiến đấu
dưới cờ, tôi rất thương xót những anh em đồng đội của mình vẫn vô tư chiến đấu
hăng say, dũng cảm. Họ không biết lãnh đạo của họ bất xứng, ích kỷ, chỉ biết ấm
thân. Chẳng phải cao ngạo, tôi khá coi thường những nhân vật tên tuổi thì lớn,
mà tình yêu Đất Nước thì bé. Xin ghi ra đây một số “người và việc” để chứng
minh tại sao trong trí tôi đã có cảm tưởng Miền Nam sẽ thua cuộc chiến đấu vừa
qua. Mong rằng bạn đọc đừng chê trách tôi tại sao vạch áo cho người xem lưng. Việt
Cộng biết rõ lưng chúng ta hơn chúng ta tưởng.
1/ Đại tướng Nguyễn Khánh kéo một số
Tướng lãnh ra Vũng Tàu họp bàn, rồi thảo bản Hiến chương (báo chí gọi là Hiến
chương Vũng Tàu). Sinh viên bị xách động, biểu tình phản đối dữ dội. Tướng
Nguyễn Khánh leo lên xe tăng, vung nắm tay lên cao, hô lớn: “Đả đảo Nguyễn
Khánh!” giống như một tên hề! Một lãnh tụ tồi như vậy, lính tráng còn tinh thần
đâu nữa để chiến đấu? Thế mà anh em đổng đội tôi vẫn chiến đấu hăng say mới lạ!
2/ Vụ buôn lậu “Còi Hụ Long An” gây
tin đồn ầm ĩ do bà Thiệu (phu nhân Tổng thống), bà Khiêm (phu nhân Thủ tướng)
chủ mưu. Viên Trung úy Quân Cảnh chặn bắt đoàn xe bị đổi đi đơn vị khác, còn
sống hay đã chết không ai biết tung tích. Tổng thống lẫn Thủ tướng chẳng thèm
đưa nội vụ ra tòa để bạch hóa những lời đồn vô căn cứ. Lãnh đạo Đất Nước mà
khuất tất như vậy, lý tưởng bảo vệ Miền Nam đâu còn nữa? Không một ông Tướng
nào dám vào Dinh Độc Lập đặt vấn đề với Tổng thống, thì làm sao có “Cái Dũng”
để chỉ huy ngoài mặt trận? Không có vị lãnh tụ chính trị nào đặt thẳng vấn đề
với Chính quyền. Thượng Viện, Hạ Viện cũng không đòi phía Hành pháp ra điều
trần. Dần dà vụ buôn lậu chìm xuồng, tinh thần quân sĩ xuống thấp. Anh Kolman,
một viên chức cao cấp CIA, khuyên tôi nên thu xếp gia đình để chuồn, vì thế nào
Mỹ cũng bỏ rơi Miền Nam. Tôi tự hỏi: “Chẳng lẽ đào ngũ sao? Chuồn, nhưng biết
chuồn đi đâu?” (Anh Kolman, một người bị khuyết tật vì chứng “polio” từ nhỏ,
nếu người nào hoạt động trong ngành tình báo với Mỹ đều biết anh).
3/ Giáo sư Vũ văn Mẫu có bằng Thạc
sĩ Luật Quốc tế, được Tổng thống Ngô Đình Diệm bổ nhiệm làm Bộ trưởng Ngoại
giao. Nhưng khi mấy tên Việt Cộng đội lốt Nhà Sư nổi lên chống Chính quyền dưới
danh nghĩa tranh đấu đòi tự do tôn giáo, Vũ văn Mẫu cạo trọc đầu, từ chức để
ủng hộ cuộc tranh đấu. Bọn Sư Việt Cộng không ngừng tranh đấu dù anh em ông Diệm
đã chết, vẫn tiếp tục quấy rối cuộc trị an ở hậu phương để tiếp tay cho quân
xâm lăng Bắc Việt. Vũ văn Mẫu vẫn cam tâm làm tay sai cho Trí Quang, nhưng
không một nhà trí thức nào tầm cỡ như Giáo sư Vũ Quốc Thúc, Nguyễn Cao Hách có
một tiếng nói để chống lại sự phản bội của Vũ văn Mẫu, vạch mặt Vũ văn Mâu là
một trí thức cơ hội. Tại sao giới trí thức không thấy cuộc đấu tranh của Trí
Quang sẽ làm Miền Nam sụp đổ, mà chỉ biết rên rỉ Pháp nạn? Đâu rồi những trí
thức Phật giáo thấm nhuần ba chữ "Bi - Trí - Dũng?
4/ Giáo sư Hồ hữu Tường, Cố vấn
chính trị cho lực lượng Bình Xuyên, chống Chính quyền Thủ tướng Ngô Đình Diệm,
bị bắt và bị đày ra Côn Đảo. Lúc Đệ nhất Cộng Hòa bị lật đổ, Hồ hữu Tường được
thả về Saigon, sau đó trở thành Dân biểu Quốc hội VNCH. Năm 1969, Hồ Chính Minh
đền tội. Hồ Hữu Tường đề nghị Quốc Hội lập một phái đoàn ra Hà Nội để phúng
điếu Hồ Chí Minh. Thế mà, không một ai nghe một ông Thượng Nghị sĩ hay một ông
Dân biểu nào lên tiếng chống lại hành động ngu xuẩn của Dân biểu Hồ hữu Tường.
Lập phái đoàn đi phúng điếu một tên sát nhân chủ trương xâm lăng Miền Nam, thì
Chống Cộng để làm gì? Sau năm 1975, Dân biểu Hồ Hữu Tường đã chết trong nhà tù
Việt Cộng!
Tôi nhớ Tướng Độc Nhãn Do Thái Moshe
Dayan lúc sang Việt Nam, trả lời nhà báo phỏng vấn là Miền Nam muốn chiến thắng
Việt Cộng thì phải thua Việt Cộng trước đi đã. Điều đó có nghĩa là chính trị
gia, trí thức, Tướng lãnh Miền Nam phải nếm mùi cộng sản đã, thì mới lo đoàn
kết với nhau diệt cộng sản. Tôi cho rằng Tướng Moshe Dayan xứng đáng là vị
Tướng tài ba ngoài chiến trường, thông minh trong chính trường, vì chỉ ở Việt
Nam trong mấy tuần lễ, nhưng nhận định của ông rất chính xác nội tình chính trị
Miền Nam .
Năm 1954, gần một triệu dân Miền Bắc
bồng bế nhau di cư vào Miền Nam vì không thể sống dưới chế độ cộng sản. Sự kiện
đó không đủ để cho trí thức, các lãnh đạo chính trị, các nhà lãnh đạo tôn giáo
các nhà lãnh đạo quân sự Miền Nam thấy viễn ảnh cực kỳ ghê gớm, nếu cuộc xâm
lăng Miền Nam của Việt Cộng thành công. Năm 1959, cụ Hoàng văn Chí xuất bản
cuốn “Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc” để cho họ thấy rõ Hồ Chí Minh đã chà đạp
trí thức, văn nghệ sĩ như thế nào, nhưng cũng không thức tỉnh nổi trí thức,
chính trị gia, quân nhân Miền Nam. Hỏi rằng một tầng lớp được coi là “élite”
lãnh đạo Đất Nước là ngu hay sáng suốt? Ngoài cái ngu ra, còn có cả sự phản bội
mới là ghê gớm.
Hồ Chí Minh thành công trong sứ mệnh
đặt nước Việt Nam dưới ách đô hộ của Trung Cộng là nhờ trí thức Việt Nam ngu.
Mao Trạch Đông coi trí thức như cục cứt. Hồ Chí Minh đào tận gốc trốc tận rễ là
làm theo chỉ thị của Mao Trạch Đông, nhưng trí thức vẫn đâm đầu vào mà không
gọi ngu thì gọi là gì? Chỉ vi trí thức ngu si, thì Hồ Chí Minh mới có thể thực
hiện chiến lược địch vận, trí vận, binh vận được chứ! Đúng không? Trong mỗi bài
diễn văn, Tổng thống Ngô Đình Diệm đều nhấn mạnh hiểm họa cộng sản, nhưng cái
ngu của dân Việt Nam giống như bị hòn đá tảng đè quá nặng, không một ai có thể
cục cựa được.
Cái chết của Chúa Jesus Christ trên
cây Thánh giá không cứu rỗi được nhân loại. Cái chết của gia đình Tổng thống
Ngô Đình Diệm cũng không thể làm cho dân Việt Nam sáng mắt. Có một thi sĩ người
Nhật làm một bài thơ ngắn ngủi, nhưng ý tưởng rất thâm sâu:
“Trong công viên, có biển đề cấm
không được hái hoa. Nhưng hoa vẫn rụng, bởi vì gió không biết đọc”. Tôi không phải là nhà thơ, nhưng
xin bắt chước ý tưởng của thi sĩ người Nhật: “Tổ tiên nòi giống Việt lưu lại
cho con cháu một kho tàng ca dao tục ngữ khôn ngoan. Nhưng dân Việt vẫn ngu,
bởi vì trí thức Việt Nam không biết đọc để dạy dân”. Tổ tiên ta dạy “bần
cùng sinh đạo tặc”. Chủ nghĩa cộng sản chủ trương bần cùng hóa nhân dân, vô sản
chuyên chính mà thành công là vì dân ta ngu. Trong khi đó, nhà lãnh đạo Ngô
Đình Diệm đã làm cho một vùng đất bị tàn phá sau chiến tranh, trở thành Hòn
Ngọc Viễn Đông, mà bị một bầy phản bội với sự phụ họa của trí thức, Tướng lãnh
để giết, thì xin hỏi là ngu hay khôn?
Một bọn người rừng rú khố rách áo ôm
lên cầm quyền, xé nát đất nước phì nhiêu thành một bãi rác khổng lồ, người dân
bị cả thế giới khinh bỉ, mà người thoát ra ngoài vòng kiềm tỏa của bầy thú
hoang dã, vẫn không đoàn kết được với nhau để bảo vệ sự tồn tại nòi giống. Tôi
xin hỏi có ai đủ tài ba, đủ uy tín để phá tan đám mây đen ngu dốt đang phủ kín
dân tộc này?
Thưa Thầy giáo dạy Văn,
Thầy bảo em hãy bình giải bài thơ
của cô giáo Trần thị Lam. Em đã cặm cụi viết bằng những dẫn chứng vài ba sự kiện
lịch sử để chứng minh. Em không cố ý vạch áo cho người xem lưng. Cái dân tộc
Việt Nam mình nó như thế nào, em chỉ viết ra như thế ấy! Giống dân Việt rất
thông minh, nhưng sự thông minh không dùng vào việc gì được, vì tình trạng đố
kỵ lẫn nhau, chẳng ai bảo được a, thì đoàn kết thế nào được? Theo sự xét đoán
của em, dân tộc này rồi sẽ bị đồng hóa thành một giống người không còn những
đặc tính bất khuất, hào hùng của Tổ Tiên, vì họ không còn có “Cái giận Chính
Khí”, ắt không có lòng Tự Ái Dân Tộc, cam tâm chịu nhục, thì sự diệt chủng
không thể tránh được! Nếu Thầy thấy bài bình giải là sai, là bi quan yếm
thế, xin Thầy vui lòng chỉ giáo, người học trò này xin lĩnh hội. Con xin trân
trọng cảm ơn Thầy.
Bằng Phong Đặng văn Âu,
Email Address: bangphongdva033@gmail.com
Telephone: 714 – 276 – 5600.
(Con sẽ viết bài thứ hai kỳ sau về
chủ đề này).
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.