Search This Blog

Thursday, May 29, 2025

SỬ DỤNG VŨ KHÍ SINH HỌC - QUÉT SẠCH NƯỚC MỸ - TRÌ HẠO ĐIỀN.

 

 Trì Hạo Điền: SỬ DỤNG VŨ KHÍ SINH HỌC, QUÉT SẠCH NƯỚC MỸ


SỬ DỤNG VŨ KHÍ SINH HỌC, QUÉT SẠCH NƯỚC MỸ

Trì Hạo Điền

Bài phát biểu của tướng Trì Hạo Điền - nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Trung Quốc tại Hội nghị các tướng lĩnh bàn về chiến lược chiến tranh tương lai tổ chức năm 2005 …
(Tài liệu được công bố trên Tạp chí Các vấn đề chiến lược, Ấn Độ, 15.4.2009)


Các nhà lãnh đạo Trung Quốc thường tuyên bố sự trỗi dậy của Trung Quốc hoàn toàn mang tính chất hoà bình và rằng Trung Quốc không có tham vọng bành trướng. Tuy nhiên, bài phát biểu của Bộ trưởng quốc phòng tại hội nghị các tướng lĩnh Trung Quốc về Chiến lược chiến tranh tương lai cách đây 4 năm lại cho thấy viên tướng này coi người Trung Quốc là chủng tộc siêu đẳng nhất thế giới và họ có sứ mệnh phải quét sạch nước Mỹ để làm bá chủ thế giới. Sự thay đổi của Trung Quốc đang làm thay đổi cán cân chiến lược, ít nhất là ở khu vực châu Á. Nhưng không ai có thể biết được khuôn hình và kết quả tương lai của sự thay đổi đó. Dư luận rộng rãi trên thế giới nghi ngờ về tham vọng bá quyền của Trung Quốc. Đây là một quá trình không thể dừng lại được. Dưới đây là toàn văn bài phát biểu của Tướng Trì Hạo Điền phản ánh một số khía cạnh của tư duy chiến lược của Trung Quốc hiện nay.


Như mọi người đều biết, theo quan điểm truyền bá của các học giả phương Tây, toàn thể loài người trên Trái Đất có nguồn gốc chung từ một người mẹ duy nhất ở Châu Phi. Như vậy, không một chủng tộc nào có thể tự nhận mình là chủng tộc siêu đẳng nhất. Tuy nhiên, theo các nghiên cứu của đại đa số các học giả Trung Quốc, người Trung Quốc khác với các chủng tộc khác trên thế giới. Chúng ta không có nguồn gốc từ Châu Phi. Trái lại, chúng ta có nguồn gốc độc lập trên đất Trung Quốc. Nguời Bắc Kinh ở Chu Khẩu Điếm mà tất cả chúng ta đều bắt nguồn từ đó đại diện cho một giai đoạn tiến hoá của tổ tiên chúng ta.

Nguồn gốc nền văn minh Trung Hoa

Trước đây, chúng ta thường nói rằng nền văn minh Trung Quốc có lịch sử 5.000 năm. Nhưng hiện nay, rất nhiều chuyên gia nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có khảo cổ học, văn hóa sắc tộc, và văn hoá khu vực đã đi tới một sự thống nhất rằng các phát hiện mới như nền văn hoá Hongshan ở vùng Đông Bắc, nền văn hoá Liangzu ở tỉnh Chiết Giang, các phế tích Jinsha ở tỉnh Tứ Xuyên, và khu di tích văn hoá đế chế Yongzhou ở tỉnh Hồ Nam tất cả đều cho thấy bằng chứng về sự tồn tại của nền văn minh tiền Trung Quốc, và chúng khẳng định rằng riêng lịch sử canh tác lúa đã có từ 8.000-10.000 năm truớc đây. Điều này bác bỏ quan niệm về lịch sử 5.000 năm của Trung Quốc…

Bởi vậy, chúng ta có thể xác định rằng chúng ta là sản phẩm của nền văn hoá có nguồn gốc từ cách đây hơn 1 triệu năm, nền văn minh và tiến bộ với lịch sử hơn 10.000 năm, một dân tộc có 5.000 năm lịch sử, và một thực tế Trung Quốc với lịch sử hơn 2.000 năm. Đó là dân tộc Trung Quốc tự gọi mình như vậy.Là dòng dõi của Viêm và Hoàng, dân tộc Trung Quốc mà chúng ta tự hào thuộc về dân tộc đó. Nước Đức Hitle đã từng kiêu hãnh tự coi mình là chủng tộc siêu đẳng nhất trên Trái đất, nhưng thực tế là dân tộc chúng ta còn siêu việt hơn người Đức rất nhiều.

Đã có nhiều bài học, trong đó có bài học về sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu, cũng như bài học về tại sao Đức và Nhật Bản lại thất bại trong Chiến tranh thế giới thứ Hai. Đã có rất nhiều cuộc thảo luận về sự sụp đổ của chủ nghĩa Cộng sản ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Hôm nay, điều quan trọng với chúng ta là nói về các bài học thất bại của Đức và Nhật Bản.

Như mọi người đều biết, nước Đức phát xít cũng nhấn mạnh rất nhiều về vấn đề giáo dục cho dân chúng, đặc biệt là cho thế hệ trẻ. Đảng và Chính phủ quốc xã đã tổ chức và xây dựng rất nhiều thể chế tuyên truyền giáo dục, ví như Cơ quan hướng dẫn tuyên truyền quốc gia, Bộ Giáo dục và tuyên truyền quốc gia, Cục thanh tra nghiên cứu dư luận thế giới và giáo dục, và Cơ quan thông tin, tất cả đều nhằm gieo vào tâm trí của dân chúng Đức, từ học sinh các lớp tiểu học đến các trường đại học, là dân tộc Đức là chủng tộc thượng đẳng, và thuyết phục dân chúng rằng sứ mệnh lịch sử của chủng tộc Ariăng (Arian) là trở thành chủ nhân thế giới và thống trị toàn thế giới. Khi đó, nhân dân Đức thống nhất chặt chẽ hơn nhiều so với chúng ta hiện nay.

Tuy vậy, nước Đức đã bị thất bại nhục nhã cùng với nước Nhật Bản đồng minh. Vì sao vậy? Chúng ta đã đi tới một số kết luận tại các hội nghị nghiên cứu của Bộ Chính trị để nghiên cứu về các quy luật quyết định sự thăng trầm của các cường quốc lớn, và tìm cách phân tích sự phát triển nhanh chóng của Đức và Nhật Bản. Khi đó, chúng ra đã quyết định xây dựng mô hình đất nước dựa theo mô hình nước Đức, song chúng ta quyết không lặp lại các sai lầm mà người Đức đã mắc phải.

Xin nêu ra những nguyên nhân cơ bản dẫn tới thất bại của họ: Thứ nhất, họ có quá nhiều kẻ thù cùng một lúc, bởi họ đã không tuân theo nguyên tắc là chỉ tiêu diệt kẻ thù ở một thời điểm nhất định; Thứ hai, họ quá hăng hái, thiếu sự kiên nhẫn và bền gan, những phẩm chất đòi hỏi phải có để thực hiện những sự nghiệp vĩ đại; Thứ ba, khi tới thời điểm đòi hỏi phải tỏ ra tàn bạo thì họ lại tỏ ra quá mềm yếu, do vậy đã để lại những nguy cơ bộc lộ về sau này.

Giả dụ khi đó, Đức và Nhật có thể làm cho Mỹ đứng trung lập và tiến hành chiến tranh từng bước đối với Liên Xô. Nếu thực hiện chiến lược đó, tranh thủ thời gian đẩy nhanh các nghiên cứu và thành công trong việc làm chủ công nghệ hạt nhân và tên lửa, và sử dụng các vũ khí đó bất ngờ tấn công Mỹ và Liên Xô, thì khi đó Mỹ và Liên Xô đã không thể chống lại họ và buộc phải đầu hàng.

Đặc biệt là Nhật Bản đã phạm phải sai lầm khi tiến hành cuộc tấn công bất ngờ vào Trân Châu Cảng. Cuộc tấn công này không nhằm vào các phần có tầm quan trọng sống còn đối với nước Mỹ. Thay vì điều đó, cuộc tấn công này lôi kéo nước Mỹ tham gia chiến tranh, tham gia lực lượng những nước đào huyệt chôn vùi hai nhà nước phát xít Đức và Nhật Bản.

Tất nhiên, nếu họ không phạm 3 sai lầm nói trên và giành chiến thắng, thì lịch sử thế giới đã được viết theo hướng khác hẳn. Trong trường hợp đó, Trung Quốc sẽ không nằm trong tay chúng ta. Nhật Bản có thể chuyển thủ đô của họ tới Trung Quốc và thống trị toàn bộ đất nước Trung Quốc. Sau đó, Trung Quốc và toàn bộ châu Á dưới sự chỉ huy của Nhật Bản với toàn bộ sự thông minh của Phương Đông sẽ chinh phục phương Tây do Đức lãnh đạo và thống nhất toàn thế giới.

Người Trung Hoa có là chủng tộc thượng đẳng?

Như vậy, những nguyên nhân cơ bản dẫn tới thất bại của Đức và Nhật Bản là lịch sử không sắp xếp để họ trở thành những chủ nhân của Trái Đất, vì tóm lại là họ không phải những chủng tộc ưu việt nhất.

So sánh về hình thức bên ngoài, Trung Quốc ngày nay giống một cách đáng ngại với người Đức trước kia. Cả hai đều coi mình là những dân tộc siêu đẳng nhất; cả hai đều có lịch sử bị các cường quốc bên ngoài bóc lột và do vậy đều mang nặng sự hận thù; cả hai đều cảm thấy mình sống trong một không gian rất không phù hợp; cả hai đều giương cao ngọn cờ dân tộc và chủ nghĩa xã hội và gắn cho mình nhãn hiệu chủ nghĩa xã hội quốc gia; cả hai đều có một nhà nước, một đảng, một nhà lãnh đạo, và một học thuyết.

Nhân dân Trung Quốc chúng ta thông minh hơn người Đức bởi xét về cơ bản, chúng ta là chủng tộc ưu việt hơn chủng tộc của họ. Đó là kết quả bởi việc chúng ta có lịch sử lâu đời hơn, đông dân hơn và đất đai rộng lớn hơn. Xét trên cơ sở này, tổ tiên của chúng ta để lại cho chúng ta hai di sản cốt yếu nhất, đó là chủ nghĩa vô thần và sự thống nhất vĩ đại. Đó chính là đức Khổng Tử, người đã sáng lập ra nền văn hoá Trung Quốc và để lại cho chúng ta những di sản này.

Hai di sản nói trên xác định rằng chúng ta có khả năng sống còn cao hơn Phương Tây. Đó là lý do giải thích tại sao chủng tộc Trung Quốc thịnh vượng lâu dài như vậy. Chúng ta có sứ mệnh không được để bị chôn vùi cả trên Thiên đàng cũng như trên Trái đất, bất kể đó là những thảm họa do thiên nhiên, do con người gây ra hay thảm hoạ quốc gia và cho dù chúng nghiêm trọng tới mức nào. Đây là ưu thế của chúng ta.

Ví dụ về phản ứng đối với chiến tranh chẳng hạn. Do cho tới nay nước Mỹ chưa hề nhìn thấy chiến tranh trên đất nước họ, nên một khi các kẻ thù vào đất Mỹ, họ có thể tiến tới tận thủ đô Oasinhtơn trước khi Quốc hội Mỹ kết thúc việc thoả luận và cho phép tổng thống Mỹ tuyên bố tình trạng chiến tranh. Tuy nhiên, đối với chúng ta, chúng ta sẽ không lãng phí thời gian vào những việc tầm thường như vậy. Đồng chí Đặng Tiểu Bình có lần đã nói: Lãnh đạo Đảng sẽ thông qua các quyết định một cách mau lẹ. Một khi các quyết định được thông qua, chúng sẽ được thực hiện ngay lập tức. Sẽ không có việc lãng phí thời gian vào những việc tầm thường như ở các nước tư bản. Đó là ưu thế của chúng ta.

Nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng Cộng sản Trung Quốc được xây dựng trên truyền thống và sự thống nhất vĩ đại. Mặc dù nước Đức phát xít cũng nhấn mạnh tới cơ chế tập trung ở mức cao khi ra các quyết định, song họ chỉ chú trọng tới quyền lực điều hành đất nước, nhưng lại coi thường cơ chế lãnh đạo tập thể ở cấp Trung ương. Bởi thế về sau này Hitle đã bị rất nhiều người phản bội, điều đó đã làm suy kiệt ghê gớm khả năng chiến tranh của Đức quốc xã.

Có một nhận xét rất nổi tiếng trong một bộ phim về sức mạnh và quyền uy: Những kẻ thù thường gặp nhau trên một con đường nhỏ, chỉ có những kẻ dũng cảm mới chiến thắng. Dạng chiến đấu với tinh thần một mất một còn đã cho phép chúng ta dành được quyền lực tại Trung Quốc đại lục. Số phận lịch sử đã quyết định rằng Trung Quốc và Mỹ sẽ không tránh khỏi đối đầu trên một con đường nhỏ và chiến đấu chống lại nhau! Mỹ, không giống như Nga và Nhật Bản, chưa bao giờ làm tổn thương Trung Quốc và cũng giúp Trung Quốc chống lại cuộc chiến đấu chống Nhật Bản. Tuy vậy, Mỹ tất yếu sẽ là trở ngại, trở ngại lớn nhất! Về lâu dài, quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ sẽ là đấu tranh một mất một còn.

Có thời, một số người Mỹ tới thăm Trung Quốc và tìm cách thuyết phục chúng ta rằng mối quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ là một quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Đồng chí Đặng Tiểu Bình khi đó đã trả lời một cách lịch sự: Hãy về nói với chính phủ của các ngài rằng Trung Quốc và Mỹ không có mối quan hệ phụ thuộc và hiểu biết lẫn nhau như vậy. Rõ ràng là đồng chí Đặng Tiểu Bình đã quá lịch sự, đồng chí ấy có thể nói thẳng: Quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ là một trong các quan hệ đấu tranh một mất một còn.

Tất nhiên, hiện giờ không phải là thời gian thích hợp để phá vỡ quan hệ với Mỹ. Chính sách cải cách và mở cửa ra thế giới bên ngoài của chúng ta còn phải dựa vào tiền vốn và công nghệ của họ, chúng ta vẫn còn cần tới nước Mỹ. Do vậy, chúng ta cần phải nỗ lực tăng cường quan hệ của chúng ta với Mỹ, học tập nước Mỹ trên mọi lĩnh vực và sử dụng Mỹ làm tấm gương cho việc tái thiết đất nước.

Quét sạch nước Mỹ

Để giải quyết vấn đề nước Mỹ, chúng ta cần phải vượt lên trên những điều thông thường và hạn chế. Trong lịch sử, khi một nước đánh bại và chiếm đóng một nước khác, họ không thể giết hết dân chúng của nước bị chinh phục một cách hiệu quả bằng gươm hoặc giáo dài, hay thậm chí bằng súng tiểu liên hoặc súng máy. Bởi vì không thể giữ được vùng đất rộng lớn mà không duy trì người của mình trên vùng đất đó. Tuy nhiên, nếu chúng ta chinh phục nước Mỹ theo kiểu đó, chúng ta không thể đưa nhiều người Trung Quốc di cư tới Mỹ.

Chỉ có thể sử dụng nhũng biện pháp đặc biệt để quét sạch nước Mỹ và sau đó chúng ta mới có thể đưa nhân dân Trung Quốc tới đó. Đây là lựa chọn duy nhất đối với chúng ta. Đó không phải là vấn đề chúng ta muốn hay không muốn. Những biện pháp đặc biệt nào chúng ta có thể thực hiện để quét sạch nước Mỹ ? Những loại vũ khí thông thường như máy bay chiến đấu, đại bác, tên lửa hay tàu chiến không thể làm điều đó; các loại vũ khí huỷ diệt như vũ khí hạt nhân cũng không thể làm được như vậy. Chúng ta không ngu ngốc đến nỗi cùng tự huỷ diệt với Mỹ bằng cách sử dụng vũ khí hạt nhân, cho dù trên thực tế chúng ta vẫn tuyên bố giải quyết vấn đề Đài Loan bằng mọi giá.

Chỉ có thể sử dụng loại vũ khí không huỷ diệt, nhưng có khả năng giết nhiều người chúng ta mới có thể giành lấy nước Mỹ cho chúng ta. Công nghệ sinh học hiện đại đang phát triển nhanh chóng, và các loại vũ khí sinh học mới được phát minh nối tiếp nhau. Tất nhiên là chúng ta không để lãng phí thời gian; trong những năm qua chúng ta đã nắm được khả năng trở thành chủ nhân của các loại vũ khí này. Chúng ta có khả năng đạt được mục tiêu quét sạch nước Mỹ một cách hoàn toàn bất ngờ. Khi đồng chí Đặng Tiểu Bình còn sống, Ban chấp hành trung ương Đảng đã sáng suốt đưa ra quyết định đúng đắn là không phát triển các nhóm tàu sân bay và thay vào đó, tập trung phát triển các loại vũ khí có thể thủ tiêu hàng loạt dân chúng của nước thù địch.

Xét về mặt nhân đạo, chúng ta cần phải cảnh báo cho dân chúng Mỹ và thuyết phục họ rời khỏi nước Mỹ và để lại vùng đất họ từng sinh sống trên đó cho người Trung Quốc. Hoặc là ít nhất họ phải rời khỏi một nửa nước Mỹ để nhường phần đất đó cho người Trung Quốc, bởi phát hiện ra nước Mỹ lần đầu tiên chính là người Trung Quốc.

Nhưng sẽ phải làm điều đó như thế nào? Nếu chiến lược đó không thực hiện được, thì khi đó chúng ta chỉ còn một lựa chọn duy nhất. Tức là sử dụng những biện pháp kiên quyết để Quét sạch nước Mỹ và giành lấy nước Mỹ cho chúng ta ngay lập tức. Thực tế lịch sử của chúng ta cho thấy chừng nào chúng ta thực hiện được điều đó, không có nước nào trên thế giới có khả năng ngăn cản chúng ta. Hơn nữa, với một nước Mỹ với một tư cách thế giới bị mất đi, thì tất cả các kẻ thù khác buộc phải đầu hàng chúng ta.

Vũ khí sinh học là một loại vũ khí tàn ác chưa từng thấy, song nếu nước Mỹ không chết thì Trung Quốc sẽ bị huỷ diệt. Nếu nhân dân Trung Quốc bị mắc kẹt trên diện tích đất hiện nay, thì sự sụp đổ hoàn toàn của xã hội Trung Quốc chắc chắn sẽ xảy ra. Theo cách tính mô hình hoá trên máy tính của tác giả Yellow Peril, hơn một nửa dân số Trung Quốc sẽ chết, và con số đó sẽ là hơn 800 triệu người! Ngay sau khi giải phóng, vùng đất màu vàng của chúng ta có khoảng 500 triệu dân, trong khi dân số chính thức hiện nay là hơn 1,3 tỉ người. Khả năng của vùng đất màu vàng này đã đạt tới mức giới hạn của nó. Một ngày nào đó người ta có thể biết điều đó xảy ra nhanh chóng như thế nào, sự sụp đổ lớn có thể xảy ra vào bất kỳ thời điểm nào và hơn một nửa dân số của chúng ta sẽ buộc phải ra đi.

Chúng ta cần phải chuẩn bị sẵn sàng hai phương án. Nếu thành công trong việc sử dụng vũ khí sinh học bất ngờ tấn công nước Mỹ, chúng ta có thể giảm thiểu thiệt hại về người trong cuộc chiến tranh với Mỹ. Nếu trong trường hợp cuộc tấn công đó thất bại, và kích động một cuộc phản công bằng vũ khí hạt nhân từ nước Mỹ, Trung Quốc sẽ phải gánh chịu một thảm hoạ, trong đó hơn một nửa dân số sẽ chết. Bởi vậy, chúng ta cần phải sẵn sàng với các hệ thống phòng không để bảo vệ các thành phố lớn và vừa của Trung Quốc…

Trì Hạo Điền

Monday, May 19, 2025

CÁCH ĐÂY MỘT THẾ KỶ - NGUYÊN NGỌC

 

CÁCH ĐÂY MỘT THẾ KỶ, NHỮNG NGƯỜI KHỔNG LỒ.

 

Gần đây, do những chuyển động mới trong đời sống xã hội và hoạt động tích cực của những người tâm huyết, một số tác phẩm của nhiều người trước đây từng bị coi là “có vấn đề” đã được in và giới thiệu lại, đáng chú ý chẳng hạn những bài viết phong phú, sắc sảo và sinh động, cả cập nhật ngay đối với hôm nay nữa của Phan Khôi, hay những tác phẩm uyên thâm, thống thiết, và lạ thế, cũng cập nhật không kém của Phạm Quỳnh - một tập tiểu luận dịch từ nguyên bản tiếng Pháp của ông đang gây chú ý rộng rãi trong dư luận.

Một nhân vật đặc biệt khác cũng đang thu hút sự quan tâm của nhiều người nhiều giới: Nguyễn Văn Vĩnh. Theo chỗ tôi được biết một bộ phim tài liệu quý về cuộc đời và sự nghiệp của ông đang được chuẩn bị. Tôi có được xem một phần bản thảo phim ấy.

Mở đầu là một người cháu gái của Nguyễn Văn Vĩnh, nay chắc cũng đã quá tuổi tứ tuần, kể chuyện cách đây mấy mươi năm một hôm đi học về tủi thân và khóc ròng, lại gặp cơn mưa lớn, phải vào trú dưới mái hiên một nhà bên đường. Bà cụ chủ nhà thấy có cô học trò đứng dưới hiên nhà mình mà khóc, liền ra hỏi:

“Sao cháu khóc nhiều thế?”.

Cô bé sụt sùi:

“Sáng nay ở lớp cô giáo dạy rằng ông nội cháu là một tên đại Việt gian, tay sai, bồi bút cho thực dân Pháp, cháu buồn, cháu nhục quá…”.

“Vậy ông nội cháu là ai?”.

“Dạ, ông cháu là Nguyễn Văn Vĩnh ạ...”.

Bà cụ ôm chầm lấy cô bé:

“Trời ơi, cháu là cháu nội Tân Nam Tử ư? Ôi, cháu vào ngay đây với bà, cháu không việc gì phải khóc cả, Tân Nam Tử Nguyễn Văn Vĩnh là một người rất vĩ đại, mặc ai nói gì thì nói, cháu phải rất tự hào. Cháu có một người ông từng có công lớn lắm với đất nước này... Rồi xã hội cũng sẽ phải công bằng thôi, cháu ạ...”.

Quả thật ngày nay cuộc sống đã bắt đầu trả lại sự công bằng - muộn mằn và chậm chạp - cho nhân vật cao lớn đến kỳ lạ ấy của đất nước: một nhà văn, một nhà báo, một dịch giả, một nhà văn hóa lớn, hầu như lĩnh vực nào cũng là người khai phá và luôn ở hàng đầu, người sáng lập tờ báo chữ quốc ngữ đầu tiên ở miền Bắc, ông tổ của ngành in hiện đại ở nước ta, người đầu tiên thiết lập nền sân khấu hiện đại ở Việt Nam, và bằng những bài thơ dịch La Fontaine tuyệt vời, cũng là người đầu tiên phá vỡ thể thơ truyền thống, giải phóng thơ Việt ra khỏi khuôn khổ cổ cứng nhắc hàng nghìn năm, mở đường cho thơ mới ra đời, hiện đại hoá thơ Việt, cũng lại là một trong những người tiên phong sáng lập Đông Kinh Nghĩa Thục: một nhà khai sáng chói lọi của đất nước đầu Thế Kỷ XX…

Cuộc sống cũng đã và đang dần dần trả lại công bằng cho một số tên tuổi lớn từng bị soi rọi nhiều chục năm dưới những nguồn sáng chẳng lấy gì làm đẹp đẽ, như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, và không ít người khác nữa, những tài năng xuất chúng, những nhà khai sáng lớn trong một thời kỳ chuyển động lịch sử quan trọng.

Một số nhân vật khác, ít gay cấn hơn, nhưng cũng từng bị hiểu sai, công khai hay lập lờ, bị gán cho những danh hiệu tuỳ tiện và quy chụp, hoặc bị quên lãng, đẩy xuống những hàng khuất lấp bất công, những Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Lương Văn Can, Đào Nguyên Phổ, Trương Gia Mô, Nguyễn Trọng Lợi, Huỳnh Tá Bang, Nguyễn Bá Trác..., nay người ít người nhiều, người sớm người muộn, người đã tương đối rõ ràng người còn phải tiếp tục làm sáng rõ, đã dần dần được đánh giá lại theo đúng tầm cỡ, vị trí và cống hiến của họ trong lịch sử cận đại và hiện đại...

Thời gian đang làm công việc lâu dài mà sòng phẳng của nó, không thế lực, cường quyền nào ngăn chặn được, bất chấp những tiếng la ó ngày càng lạc lõng của ai đó. Đời sống tinh thần, văn hóa, cả chính trị của đất nước vì thế ngày mỗi giàu thêm lên. Và được thụ hưởng là tất cả chúng ta, là nhân dân. Có lẽ còn hơn thế nữa, đây không chỉ là một sự khôi phục công bằng lịch sử lành mạnh. Còn có thể là một đóng góp không hề nhỏ cho chính sự phát triển nhiều triển vọng mà cũng đầy thách thức hôm nay. Bởi những thế hệ quá khứ không chỉ đã đóng trọn vai trò hoá ra là hết sức to lớn của họ, họ còn có thể tham gia trực tiếp vào cuộc đi tới hôm nay của chúng ta, bằng những bài học còn nóng hổi, nếu ta biết từ họ mà đối chiếu và ngẫm nghĩ, từ đó tính lại bao nhiêu công việc của chúng ta bây giờ.

CÁCH ĐÂY MỘT THẾ KỶ, NHỮNG NGƯỜI KHỔNG LỒ.

 

Gần đây, do những chuyển động mới trong đời sống xã hội và hoạt động tích cực của những người tâm huyết, một số tác phẩm của nhiều người trước đây từng bị coi là “có vấn đề” đã được in và giới thiệu lại, đáng chú ý chẳng hạn những bài viết phong phú, sắc sảo và sinh động, cả cập nhật ngay đối với hôm nay nữa của Phan Khôi, hay những tác phẩm uyên thâm, thống thiết, và lạ thế, cũng cập nhật không kém của Phạm Quỳnh - một tập tiểu luận dịch từ nguyên bản tiếng Pháp của ông đang gây chú ý rộng rãi trong dư luận.

Một nhân vật đặc biệt khác cũng đang thu hút sự quan tâm của nhiều người nhiều giới: Nguyễn Văn Vĩnh. Theo chỗ tôi được biết một bộ phim tài liệu quý về cuộc đời và sự nghiệp của ông đang được chuẩn bị. Tôi có được xem một phần bản thảo phim ấy.

Mở đầu là một người cháu gái của Nguyễn Văn Vĩnh, nay chắc cũng đã quá tuổi tứ tuần, kể chuyện cách đây mấy mươi năm một hôm đi học về tủi thân và khóc ròng, lại gặp cơn mưa lớn, phải vào trú dưới mái hiên một nhà bên đường. Bà cụ chủ nhà thấy có cô học trò đứng dưới hiên nhà mình mà khóc, liền ra hỏi:

“Sao cháu khóc nhiều thế?”.

Cô bé sụt sùi:

“Sáng nay ở lớp cô giáo dạy rằng ông nội cháu là một tên đại Việt gian, tay sai, bồi bút cho thực dân Pháp, cháu buồn, cháu nhục quá…”.

“Vậy ông nội cháu là ai?”.

“Dạ, ông cháu là Nguyễn Văn Vĩnh ạ...”.

Bà cụ ôm chầm lấy cô bé:

“Trời ơi, cháu là cháu nội Tân Nam Tử ư? Ôi, cháu vào ngay đây với bà, cháu không việc gì phải khóc cả, Tân Nam Tử Nguyễn Văn Vĩnh là một người rất vĩ đại, mặc ai nói gì thì nói, cháu phải rất tự hào. Cháu có một người ông từng có công lớn lắm với đất nước này... Rồi xã hội cũng sẽ phải công bằng thôi, cháu ạ...”.

Quả thật ngày nay cuộc sống đã bắt đầu trả lại sự công bằng - muộn mằn và chậm chạp - cho nhân vật cao lớn đến kỳ lạ ấy của đất nước: một nhà văn, một nhà báo, một dịch giả, một nhà văn hóa lớn, hầu như lĩnh vực nào cũng là người khai phá và luôn ở hàng đầu, người sáng lập tờ báo chữ quốc ngữ đầu tiên ở miền Bắc, ông tổ của ngành in hiện đại ở nước ta, người đầu tiên thiết lập nền sân khấu hiện đại ở Việt Nam, và bằng những bài thơ dịch La Fontaine tuyệt vời, cũng là người đầu tiên phá vỡ thể thơ truyền thống, giải phóng thơ Việt ra khỏi khuôn khổ cổ cứng nhắc hàng nghìn năm, mở đường cho thơ mới ra đời, hiện đại hoá thơ Việt, cũng lại là một trong những người tiên phong sáng lập Đông Kinh Nghĩa Thục: một nhà khai sáng chói lọi của đất nước đầu Thế Kỷ XX…

Cuộc sống cũng đã và đang dần dần trả lại công bằng cho một số tên tuổi lớn từng bị soi rọi nhiều chục năm dưới những nguồn sáng chẳng lấy gì làm đẹp đẽ, như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, và không ít người khác nữa, những tài năng xuất chúng, những nhà khai sáng lớn trong một thời kỳ chuyển động lịch sử quan trọng.

Một số nhân vật khác, ít gay cấn hơn, nhưng cũng từng bị hiểu sai, công khai hay lập lờ, bị gán cho những danh hiệu tuỳ tiện và quy chụp, hoặc bị quên lãng, đẩy xuống những hàng khuất lấp bất công, những Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Lương Văn Can, Đào Nguyên Phổ, Trương Gia Mô, Nguyễn Trọng Lợi, Huỳnh Tá Bang, Nguyễn Bá Trác..., nay người ít người nhiều, người sớm người muộn, người đã tương đối rõ ràng người còn phải tiếp tục làm sáng rõ, đã dần dần được đánh giá lại theo đúng tầm cỡ, vị trí và cống hiến của họ trong lịch sử cận đại và hiện đại...

Thời gian đang làm công việc lâu dài mà sòng phẳng của nó, không thế lực, cường quyền nào ngăn chặn được, bất chấp những tiếng la ó ngày càng lạc lõng của ai đó. Đời sống tinh thần, văn hóa, cả chính trị của đất nước vì thế ngày mỗi giàu thêm lên. Và được thụ hưởng là tất cả chúng ta, là nhân dân. Có lẽ còn hơn thế nữa, đây không chỉ là một sự khôi phục công bằng lịch sử lành mạnh. Còn có thể là một đóng góp không hề nhỏ cho chính sự phát triển nhiều triển vọng mà cũng đầy thách thức hôm nay. Bởi những thế hệ quá khứ không chỉ đã đóng trọn vai trò hoá ra là hết sức to lớn của họ, họ còn có thể tham gia trực tiếp vào cuộc đi tới hôm nay của chúng ta, bằng những bài học còn nóng hổi, nếu ta biết từ họ mà đối chiếu và ngẫm nghĩ, từ đó tính lại bao nhiêu công việc của chúng ta bây giờ.

Riêng tôi, từ ít lâu nay, tôi vẫn thường trở đi trở lại với một câu hỏi: Tại sao hồi đầu TK.XX chúng ta lại có được một thế hệ những người khổng lồ như vậy, trong văn hóa, tức là ở cái nền tảng cơ bản nhất của tất cả, mà hình như ngày nay chúng ta lại không có, không còn có được? Những điều kiện lịch sử nào và những nỗ lực cá nhân nào đã tạo nên “thế hệ vàng” ấy của văn hóa Việt Nam vào đúng thời điểm vô cùng quan trọng mà chắc rồi chúng ta còn phải nhiều lần trở lại công phu tìm hiểu, nghiên cứu?

Trong nhiều yếu tố, nhiều nguyên nhân, phải chăng có một nguyên nhân hết sức quan trọng, thậm chí quyết định này: thế hệ ấy có một lợi thế đặc biệt, họ là một thế hệ đa văn hóa. Đặc điểm quan trọng nhất của họ là từ Hán học chuyển sang Tây học. Một nền Hán học rất uyên thâm, mà trước nay ta quá dễ hời hợt coi thường, khinh miệt, chế giễu, cả lên án nữa. Về điều này, lâu nay tôi nghĩ có hơi khác một chút.

Tôi đã thử đặt câu hỏi: nền đại học nào đã tạo nên những Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Đào Nguyên Phổ, Ngô Đức Kế, Trần Cao Vân, Đặng Nguyên Cẩn…, cả những Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Đình Chiểu…?

Chính là nền đại học “phong kiến” vào một thời kỳ mạt vận nhất của chế độ ấy tức nhà Nguyễn.

Vậy hóa ra nền đại học ấy không hề tầm thường chút nào, ít ra cũng không tầm thường hơn nền đại học ta đang có hiện nay. Họ học gì? Tứ Thư, Ngũ Kinh. Và Tứ Thư, Ngũ Kinh là gì? Đấy là trí tuệ cao nhất, tập trung, cô đúc nhất của thời trung đại phương Đông. Họ không học tràn lan như chúng ta bây giờ, vơ cho kỳ hết đủ thứ, bỏ cái gì cũng sợ thiếu, đến nỗi học trò lớp một phổ thông đã phải vẹo cả cột sống với chiếc cặp sách khốn khổ của bộ Giáo dục trên lưng! Họ chỉ học rất ít, chắt lọc lấy cái cơ bản nhất mà học, học cho đến nhuần nhuyễn, để rồi từ cái cơ bản đó mà đủ sức tự mình vận dụng hành xử trong mọi tình huống suốt đời.

Có lẽ cũng chính vì vậy mà có một điểm rất đáng chú ý: chính những người giỏi nhất trong số họ, những nhà Hán học uyên thâm nhất lại là những người được nền học vấn ấy tạo nên trí tuệ và ý chí độc lập hết sức mạnh mẽ để dám và biết cách từ bỏ thầy, từ bỏ sách, đạp đổ cái cũ, chống lại chính cái đã học, đi trên cái mới, tự giải phóng cho trí tuệ của mình và cho đất nước, dân tộc. Nghĩa là họ học để trở thành người độc lập, tự chủ, chứ không phải thành người nô lệ, nô lệ cho những giáo điều bất khả xâm phạm, như ta từng lầm tưởng. Người nổi bật nhất trong số đó và xu hướng đó là Phan Châu Trinh, mà Huỳnh Thúc Kháng đã đánh giá xác đáng là “nhà cách mạng đầu tiên của Việt Nam”. Vậy thì, nghịch lý thay, nền giáo dục đó rất hiện đại: nó tạo nên không phải những đầu óc được nhồi sọ u tối mà là những nhân cách độc lập, tất nhiên, như bao giờ cũng vậy, ở bộ phận ưu tú nhất của nó…

Những con người đó lại gặp một chuyển đổi thời đại hết sức quan trọng, khi Việt Nam, và cả phương Đông đối mặt với phương Tây, khi diễn ra sự gặp gỡ và va chạm quyết định giữa hai nền văn hóa, văn minh lớn của nhân loại. Những phần tử sáng suốt nhất trong Hán học đã chuyển sang Tây học, dũng cảm, quyết liệt. Có điều thoạt thấy rất lạ: chính thế hệ Tây học đầu tiên đó lại là những nhà Tây học rất sâu.

Vì sao?

Phải chăng chính là vì họ xuất phát từ Hán học cũng rất sâu. Đây là sự gặp gỡ giữa hai đỉnh cao, từ đỉnh cao này họ nhìn ngắm đỉnh cao kia, từ đỉnh cao này họ đến với đỉnh cao kia. Trong họ là sự kết nối hai nền văn hóa lớn nhất của nhân loại, vấn đề của họ luôn là vấn đề của sự kết nối đó, những khả năng, những khó khăn, thách thức, những lời giải cố tìm cho sự kết nối đó.

Hãy đọc kỹ lại, chẳng hạn Phan Khôi. Thật đáng kinh ngạc vì tri thức bác học cả Đông lẫn Tây của ông, hầu như không có lĩnh vực nào bị ông bỏ qua, không vấn đề lớn nhỏ nào không được ông quan tâm, đề cập và dù chỉ một bài báo nhỏ của ông cũng là một công trình nghiên cứu công phu, trung thực, thậm chí khá cơ bản. Ông cũng là người đầu tiên dịch Kinh Thánh. Vì sao ông bỏ công sức lớn để làm công việc khó khăn và thoạt trông rất lạ đó, dầu ông không hề là người Công giáo? Có thể, một là ông dịch để học, hai là, và điều này còn quan trọng hơn, ông hiểu rất sâu rằng đấy là một tác phẩm lớn, cội nguồn của văn hóa phương Tây. Ông muốn tìm đến văn hóa phương Tây ở tận cội nguồn của nó…

Tôi cũng thường chú ý đến Huỳnh Thúc Kháng, một nhân vật có lẽ chúng ta cũng chưa để tâm nghiên cứu đầy đủ và đánh giá thật xác đáng. Thường được nhắc đến giai thoại về việc Huỳnh Thúc Kháng học tiếng Pháp: ông học trong nhà tù Côn Đảo, bằng cách học thuộc lòng từ đầu đến cuối toàn bộ cuốn từ điển Larousse!

Có điều đáng ngạc nhiên: văn quốc ngữ của Huỳnh Thúc Kháng rất hay, tôi đọc đi đọc lại ông và cuối cùng nhận ra điều này: hoá ra đấy là lối viết văn quốc ngữ mà chỉ có những người thông thạo Hán học chuyển sang Tây học mới có được; một lối tư duy khúc chiết, chặt chẽ, sáng sủa của lý tính phương Tây mà họ quyết chiếm lĩnh, kết hợp với một lối suy tư và diễn đạt súc tích đến không thừa một chữ, nghĩa ẩn trong chữ, sau chữ, giữa các dòng của người phương Đông. Nói về tính cách độc lập vô cùng mạnh mẽ của Phan Châu Trinh và việc Phan Châu Trinh sáng suốt tìm ra con đường mới từ Tân thư chẳng hạn, Huỳnh Thúc Kháng viết, cực gọn mà sắc, lại đầy hình ảnh:

“Tiên sinh đọc sách có con mắt riêng”.

Và đây là tuyên ngôn dõng dạc của ông trên số báo Tiếng Dân đầu tiên trong điều kiện làm báo dưới chế độ khắc nghiệt của thực dân Pháp: “Nếu không có quyền nói thì ít ra cũng giữ được cái quyền không nói những điều người ta buộc nói”. Khí tiết và văn phong, cô lại đến đậm đặc và sắc tựa gươm chỉ trong một dòng!...

Cũng không thể không nhắc đến Phạm Quỳnh. Sau nhiều tác phẩm viết bằng tiếng Việt, cuốn tiểu luận viết bằng tiếng Pháp từ năm 1922 đến năm 1932 của ông vừa được dịch và in là một hiện tượng xuất bản năm qua. Mối ưu tư thống thiết của ông cố đi trên một con đường cho dân tộc trong cuộc va chạm dữ dội và chấn động giữa hai thế giới Đông Tây, lạ thế, đọc cứ như đang nghe ông nói về chính những vấn đề của hôm nay. Sức nghĩ của con người có thể vượt thời gian đến thế, thật khó ngờ!...

Và về Nguyễn Văn Vĩnh, chỉ xin nói một khía cạnh “nhỏ” này: sự nghiệp dịch thuật, cũng như tất cả các hoạt động sôi nổi của ông trong mọi lĩnh vực khác, đều có tính tiên phong và ngay từ đầu đã rất đặc sắc Nguyễn Văn Vĩnh có một quan niệm thâm thuý về dịch thuật. Ông dịch là để đem về cho đồng bào mình những giá trị văn hóa lớn của nhân loại, điều vô cùng cần thiết, thậm chí khẩn cấp trong công cuộc khai hoá dân tộc mà ông thống thiết theo đuổi suốt đời. Nhưng không chỉ có thế: ông chủ trương đẩy mạnh dịch thuật một mặt là để chứng minh khả năng giàu có của tiếng Việt đồng thời cũng còn là để góp phần hiện đại hoá ngôn ngữ dân tộc, làm cho ngôn ngữ ấy - và qua đó, tất nhiên, cả người Việt, dân tộc Việt - được tăng cường thêm các khả năng chiếm lĩnh những thành quả văn hóa, văn minh cao nhất và cập nhật nhất của nhân loại. Hiện đại biết bao quan niệm và tư duy đó, và tha thiết, sâu đậm biết bao tấm lòng yêu nước của thế hệ dân tộc ta từng có được thời bấy giờ…

Quả thực, hồi đầu TK,XX, chúng ta từng có được một thế hệ vàng. Quả thật đấy là thời kỳ của những người khổng lồ. Để có được ngày hôm nay của đất nước, không phải chỉ có cách mạng và chiến tranh. Hoặc nói cho đúng hơn, chính những con người như vậy, vào một thời điểm chuyển động quan trọng của lịch sử, đã góp phần không hề nhỏ chuẩn bị tinh thần, trí tuệ, cả chí khí nữa cho dân tộc để có được cách mạng thành công và chiến tranh giải phóng thắng lợi.

Thế hệ ưu tú đó đã đi qua. Cần tiếp tục sự minh định công bằng của lịch sử đối với họ. Nhưng điều còn quan trọng hơn, cần tìm biết vì sao thời ấy đất nước khó khăn hơn bây giờ biết bao nhiêu lần, mà lại xuất hiện được thế hệ đặc sắc ấy.

Và bây giờ thì chưa có lại được.

Vì sao? Có quy luật gì ở đây chăng?

Tôi tin rằng có. Có một quy luật: nhất thiết phải đa văn hóa. Phải tìm mọi cách để, như cha ông ta cách đây đúng một thế kỷ, làm chủ được những đỉnh cao của văn hóa cả phương Đông lẫn phương Tây. Không thể, như do cạn cợt và thiển cận suốt một thời gian khá dài, chúng ta đã làm thế nào đó để mà cuối cùng đánh mất cả Đông lẫn Tây, Đông không còn mà Tây cũng vứt đi hết, Đông không ra Đông - Tây không ra Tây. Chỉ còn trơ khấc cái được gọi là “dân tộc” kỳ thực là tước đi hết của dân tộc tất cả những tiếp thụ phong phú và cần thiết cho chính cái “dân tộc” đó là một dân tộc giàu có vì liên thông với những đỉnh cao nhất của tinh thần và trí tuệ nhân loại.

Cải cách giáo dục, cả cải cách xã hội nữa, phải được đặt trên nền tảng của một tầm nhìn lớn, rất xa và rất rộng, những lạ thay và kỳ diệu thay, những người khổng lồ đầu TK.XX của chúng ta đã thật anh minh nhìn ra và thiết kế cho đất nước này.

Nguyên Ngọc

 

 

 

Trong nhiều yếu tố, nhiều nguyên nhân, phải chăng có một nguyên nhân hết sức quan trọng, thậm chí quyết định này: thế hệ ấy có một lợi thế đặc biệt, họ là một thế hệ đa văn hóa. Đặc điểm quan trọng nhất của họ là từ Hán học chuyển sang Tây học. Một nền Hán học rất uyên thâm, mà trước nay ta quá dễ hời hợt coi thường, khinh miệt, chế giễu, cả lên án nữa. Về điều này, lâu nay tôi nghĩ có hơi khác một chút.

Tôi đã thử đặt câu hỏi: nền đại học nào đã tạo nên những Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Đào Nguyên Phổ, Ngô Đức Kế, Trần Cao Vân, Đặng Nguyên Cẩn…, cả những Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Đình Chiểu…?

Chính là nền đại học “phong kiến” vào một thời kỳ mạt vận nhất của chế độ ấy tức nhà Nguyễn.

Vậy hóa ra nền đại học ấy không hề tầm thường chút nào, ít ra cũng không tầm thường hơn nền đại học ta đang có hiện nay. Họ học gì? Tứ Thư, Ngũ Kinh. Và Tứ Thư, Ngũ Kinh là gì? Đấy là trí tuệ cao nhất, tập trung, cô đúc nhất của thời trung đại phương Đông. Họ không học tràn lan như chúng ta bây giờ, vơ cho kỳ hết đủ thứ, bỏ cái gì cũng sợ thiếu, đến nỗi học trò lớp một phổ thông đã phải vẹo cả cột sống với chiếc cặp sách khốn khổ của bộ Giáo dục trên lưng! Họ chỉ học rất ít, chắt lọc lấy cái cơ bản nhất mà học, học cho đến nhuần nhuyễn, để rồi từ cái cơ bản đó mà đủ sức tự mình vận dụng hành xử trong mọi tình huống suốt đời.

Có lẽ cũng chính vì vậy mà có một điểm rất đáng chú ý: chính những người giỏi nhất trong số họ, những nhà Hán học uyên thâm nhất lại là những người được nền học vấn ấy tạo nên trí tuệ và ý chí độc lập hết sức mạnh mẽ để dám và biết cách từ bỏ thầy, từ bỏ sách, đạp đổ cái cũ, chống lại chính cái đã học, đi trên cái mới, tự giải phóng cho trí tuệ của mình và cho đất nước, dân tộc. Nghĩa là họ học để trở thành người độc lập, tự chủ, chứ không phải thành người nô lệ, nô lệ cho những giáo điều bất khả xâm phạm, như ta từng lầm tưởng. Người nổi bật nhất trong số đó và xu hướng đó là Phan Châu Trinh, mà Huỳnh Thúc Kháng đã đánh giá xác đáng là “nhà cách mạng đầu tiên của Việt Nam”. Vậy thì, nghịch lý thay, nền giáo dục đó rất hiện đại: nó tạo nên không phải những đầu óc được nhồi sọ u tối mà là những nhân cách độc lập, tất nhiên, như bao giờ cũng vậy, ở bộ phận ưu tú nhất của nó…

Những con người đó lại gặp một chuyển đổi thời đại hết sức quan trọng, khi Việt Nam, và cả phương Đông đối mặt với phương Tây, khi diễn ra sự gặp gỡ và va chạm quyết định giữa hai nền văn hóa, văn minh lớn của nhân loại. Những phần tử sáng suốt nhất trong Hán học đã chuyển sang Tây học, dũng cảm, quyết liệt. Có điều thoạt thấy rất lạ: chính thế hệ Tây học đầu tiên đó lại là những nhà Tây học rất sâu.

Vì sao?

Phải chăng chính là vì họ xuất phát từ Hán học cũng rất sâu. Đây là sự gặp gỡ giữa hai đỉnh cao, từ đỉnh cao này họ nhìn ngắm đỉnh cao kia, từ đỉnh cao này họ đến với đỉnh cao kia. Trong họ là sự kết nối hai nền văn hóa lớn nhất của nhân loại, vấn đề của họ luôn là vấn đề của sự kết nối đó, những khả năng, những khó khăn, thách thức, những lời giải cố tìm cho sự kết nối đó.

Hãy đọc kỹ lại, chẳng hạn Phan Khôi. Thật đáng kinh ngạc vì tri thức bác học cả Đông lẫn Tây của ông, hầu như không có lĩnh vực nào bị ông bỏ qua, không vấn đề lớn nhỏ nào không được ông quan tâm, đề cập và dù chỉ một bài báo nhỏ của ông cũng là một công trình nghiên cứu công phu, trung thực, thậm chí khá cơ bản. Ông cũng là người đầu tiên dịch Kinh Thánh. Vì sao ông bỏ công sức lớn để làm công việc khó khăn và thoạt trông rất lạ đó, dầu ông không hề là người Công giáo? Có thể, một là ông dịch để học, hai là, và điều này còn quan trọng hơn, ông hiểu rất sâu rằng đấy là một tác phẩm lớn, cội nguồn của văn hóa phương Tây. Ông muốn tìm đến văn hóa phương Tây ở tận cội nguồn của nó…

Tôi cũng thường chú ý đến Huỳnh Thúc Kháng, một nhân vật có lẽ chúng ta cũng chưa để tâm nghiên cứu đầy đủ và đánh giá thật xác đáng. Thường được nhắc đến giai thoại về việc Huỳnh Thúc Kháng học tiếng Pháp: ông học trong nhà tù Côn Đảo, bằng cách học thuộc lòng từ đầu đến cuối toàn bộ cuốn từ điển Larousse!

Có điều đáng ngạc nhiên: văn quốc ngữ của Huỳnh Thúc Kháng rất hay, tôi đọc đi đọc lại ông và cuối cùng nhận ra điều này: hoá ra đấy là lối viết văn quốc ngữ mà chỉ có những người thông thạo Hán học chuyển sang Tây học mới có được; một lối tư duy khúc chiết, chặt chẽ, sáng sủa của lý tính phương Tây mà họ quyết chiếm lĩnh, kết hợp với một lối suy tư và diễn đạt súc tích đến không thừa một chữ, nghĩa ẩn trong chữ, sau chữ, giữa các dòng của người phương Đông. Nói về tính cách độc lập vô cùng mạnh mẽ của Phan Châu Trinh và việc Phan Châu Trinh sáng suốt tìm ra con đường mới từ Tân thư chẳng hạn, Huỳnh Thúc Kháng viết, cực gọn mà sắc, lại đầy hình ảnh:

“Tiên sinh đọc sách có con mắt riêng”.

Và đây là tuyên ngôn dõng dạc của ông trên số báo Tiếng Dân đầu tiên trong điều kiện làm báo dưới chế độ khắc nghiệt của thực dân Pháp: “Nếu không có quyền nói thì ít ra cũng giữ được cái quyền không nói những điều người ta buộc nói”. Khí tiết và văn phong, cô lại đến đậm đặc và sắc tựa gươm chỉ trong một dòng!...

Cũng không thể không nhắc đến Phạm Quỳnh. Sau nhiều tác phẩm viết bằng tiếng Việt, cuốn tiểu luận viết bằng tiếng Pháp từ năm 1922 đến năm 1932 của ông vừa được dịch và in là một hiện tượng xuất bản năm qua. Mối ưu tư thống thiết của ông cố đi trên một con đường cho dân tộc trong cuộc va chạm dữ dội và chấn động giữa hai thế giới Đông Tây, lạ thế, đọc cứ như đang nghe ông nói về chính những vấn đề của hôm nay. Sức nghĩ của con người có thể vượt thời gian đến thế, thật khó ngờ!...

Và về Nguyễn Văn Vĩnh, chỉ xin nói một khía cạnh “nhỏ” này: sự nghiệp dịch thuật, cũng như tất cả các hoạt động sôi nổi của ông trong mọi lĩnh vực khác, đều có tính tiên phong và ngay từ đầu đã rất đặc sắc Nguyễn Văn Vĩnh có một quan niệm thâm thuý về dịch thuật. Ông dịch là để đem về cho đồng bào mình những giá trị văn hóa lớn của nhân loại, điều vô cùng cần thiết, thậm chí khẩn cấp trong công cuộc khai hoá dân tộc mà ông thống thiết theo đuổi suốt đời. Nhưng không chỉ có thế: ông chủ trương đẩy mạnh dịch thuật một mặt là để chứng minh khả năng giàu có của tiếng Việt đồng thời cũng còn là để góp phần hiện đại hoá ngôn ngữ dân tộc, làm cho ngôn ngữ ấy - và qua đó, tất nhiên, cả người Việt, dân tộc Việt - được tăng cường thêm các khả năng chiếm lĩnh những thành quả văn hóa, văn minh cao nhất và cập nhật nhất của nhân loại. Hiện đại biết bao quan niệm và tư duy đó, và tha thiết, sâu đậm biết bao tấm lòng yêu nước của thế hệ dân tộc ta từng có được thời bấy giờ…

Quả thực, hồi đầu TK,XX, chúng ta từng có được một thế hệ vàng. Quả thật đấy là thời kỳ của những người khổng lồ. Để có được ngày hôm nay của đất nước, không phải chỉ có cách mạng và chiến tranh. Hoặc nói cho đúng hơn, chính những con người như vậy, vào một thời điểm chuyển động quan trọng của lịch sử, đã góp phần không hề nhỏ chuẩn bị tinh thần, trí tuệ, cả chí khí nữa cho dân tộc để có được cách mạng thành công và chiến tranh giải phóng thắng lợi.

Thế hệ ưu tú đó đã đi qua. Cần tiếp tục sự minh định công bằng của lịch sử đối với họ. Nhưng điều còn quan trọng hơn, cần tìm biết vì sao thời ấy đất nước khó khăn hơn bây giờ biết bao nhiêu lần, mà lại xuất hiện được thế hệ đặc sắc ấy.

Và bây giờ thì chưa có lại được.

Vì sao? Có quy luật gì ở đây chăng?

Tôi tin rằng có. Có một quy luật: nhất thiết phải đa văn hóa. Phải tìm mọi cách để, như cha ông ta cách đây đúng một thế kỷ, làm chủ được những đỉnh cao của văn hóa cả phương Đông lẫn phương Tây. Không thể, như do cạn cợt và thiển cận suốt một thời gian khá dài, chúng ta đã làm thế nào đó để mà cuối cùng đánh mất cả Đông lẫn Tây, Đông không còn mà Tây cũng vứt đi hết, Đông không ra Đông - Tây không ra Tây. Chỉ còn trơ khấc cái được gọi là “dân tộc” kỳ thực là tước đi hết của dân tộc tất cả những tiếp thụ phong phú và cần thiết cho chính cái “dân tộc” đó là một dân tộc giàu có vì liên thông với những đỉnh cao nhất của tinh thần và trí tuệ nhân loại.

Cải cách giáo dục, cả cải cách xã hội nữa, phải được đặt trên nền tảng của một tầm nhìn lớn, rất xa và rất rộng, những lạ thay và kỳ diệu thay, những người khổng lồ đầu TK.XX của chúng ta đã thật anh minh nhìn ra và thiết kế cho đất nước này.

Nguyên Ngọc

 

 

 

Wednesday, May 14, 2025

ĐẢNG DÂN CHỦ CHỊU MỞ MẮT CHƯA - BẰNG PHONG ĐẶNG VĂN ÂU

 

ĐẢNG DÂN CHỦ CHỊU MỞ MẮT CHƯA ?

BẰNG PHONG ĐẶNG VĂN ÂU.

Trong tất cả Tướng lĩnh Hoa Kỳ, chỉ có hai vị Tướng hiểu rõ hiểm họa của chủ nghĩa Marx hơn cả. Đó là Tướng George Patton và Tướng Douglas MacArthur. Năm 1945, sau khi giải phóng Berlin xong, Tướng Patton đề nghị với Tổng thống Truman cho phép ông sử dụng Quân Đức đánh thẳng sang Moscow để giải phóng dân tộc Nga thoát ách Cộng sản. Nhưng Tổng thống Truman không chấp thuận. Chẳng biết sau đó Tướng Patton chết vì tai nạn xe hơi hay do một âm mưu của tổ chức bí mật nào đó? Tháng Giêng năm 1951, Tướng MacArthur đề nghị Tổng thống Truman cho phép ông mở rộng Chiến tranh Triều Tiên sang Trung Quốc, bao gồm cả việc ném bom Mãn Châu và hỗ trợ Tưởng Giới Thạch trở về Đại lục. Tướng MacArthur tin tưởng ông thừa sức diệt các Lộ Quân của Mao Trạch Đông khôi phục chính quyền dân chủ cho Tưởng Giới Thạch. Nhưng Tổng thống Truman không chấp thuận, vì lo sợ chiến tranh lan rộng và viện cớ chế ngự con gấu Bắc Cực (tức là Liên Xô), thì cần có Con Rồng Châu Á (tức là Mao Trạch Đông). Nhưng tôi không tin vì nguyên do đó, mà Tổng thống Truman không cho phép Tướng MacArthur tấn công Mao Trạch Đông. Tại sao? Tôi nghi ngờ rằng dường như có một thế lực nào đó cố vấn cho Tổng thống Truman đừng diệt Cộng sản Tàu.

Tướng Patton và Tướng MacArthur có viễn kiến hơn Tổng thống Harry Truman, vì hai ông thấy trước rằng đối với Cộng sản, chỉ có biện pháp duy nhất là tiêu diệt nó bằng quân sự, chứ không thể dung túng nó trong một quốc gia dân chủ. Tại sao? Tại vì Cộng sản không phải là một chủ thuyết chính trị có mục đích đấu tranh cho dân nghèo thấp cổ bé miệng, để xây dựng một xã hội công bằng, làm theo khả năng, hưởng theo nhu cầu. Đó là sự tuyên truyền bịp bợm, dối trá dùng để đánh lừa những bộ óc ngây thơ. Thực chất của chủ nghĩa Cộng sản là có mục đích đánh đổ nền văn minh Kitô giáo và biến con người thành súc vật để dễ bề thống trị.

Hai ngàn năm trước, người con duy nhất của Thượng Đế Chúa Jesus Christ xuống trần gian để dạy cho con cái Ngài về tình Yêu Thương tuyệt đối (đến độ bị kẻ thù tát vào má, thì đưa luôn má bên kia cho kẻ thù tát) và để chống lại bọn giả hình, bọn thu thuế. Nhưng bọn “Pharasees” không chấp nhận Chúa Jesus là Đấng Cứu thế. Cho nên, các giáo sĩ Do Thái vận động quần chúng áp lực quan Tổng Trấn Pilate ra lệnh đóng đinh Chúa Jesus lên cây thập tự giá.

Sau đó, dân Do Thái bị mất nước, lưu lạc khắp nơi và bị các dân tộc Âu Châu theo Kitô giáo khinh bỉ, bách hại. Vì thế, ông Do Thái Karl Marx lập ra đạo Cộng sản để trả thù Chúa Jesus.

Ông Do Thái Vladimir Lenin dạy tín đồ Cộng sản: Chúng ta phải căm thù – Lòng căm thù là điều cơ bản của Chủ nghĩa Cộng sản. Trẻ con phải được dạy để chúng biết căm thù cha mẹ của chúng, nếu cha mẹ của chúng không phải là những người Cộng sản”.

Hoa Kỳ là Quốc gia thờ Chúa Jesus, lấy câu “In God We Trust” làm tín lý để xây lên chế độ dân chủ, nhân bản. Sự sai lầm của Hoa Kỳ là cho phép đảng Cộng sản nuôi lòng căm thù Chúa Jesus hoạt động tại Quốc gia mình. Vào ngày lễ Lao động Quốc tế 1 tháng 5, đảng Cộng sản khai trương tại số nhà 235 W. 23th Street, Thành phố New York, Tiểu bang New York. Tên tờ báo là People’s World (Nhân Dân Thế Giới). Danh xưng là Liên Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hoa Kỳ.

Năm 1945, nhà báo George Orwell xuất bản cuốn sách Trại Súc Vật để mô tả xã hội Cộng sản. Thế mà thành phần trí thức như triết gia Jean-Paul Sartre, Bertrand Russell và nghệ sĩ lừng danh như Charlie Chaplin, Pablo Picasso lại tán tụng chủ nghĩa Cộng sản hết mình. Jean-Paul Sartre còn để lại cho đời câu nói bất hủ: “Kẻ nào chống chủ nghĩa Cộng sản là đồ con chó”. Cho đến khi chứng kiến nạn thuyền nhân Việt Nam trốn chạy Việt Cộng bị hải tặc hãm hiếp, Jean-Paul Sartre mới tỉnh ngộ, vận động nữ danh ca phản chiến Hoa Kỳ là Joan Baez cùng một trăm nhà trí thức phản chiến ký bản cáo trạng lên án tính man rợ của Cộng sản Việt Nam (Việt Cộng).

Hoa Kỳ lãnh đạo thế giới chống Chủ nghĩa Cộng sản. Trớ trêu thay! Hoa Kỳ lại nuôi dưỡng con quỷ Cộng sản tại quốc gia mình. Giới khoa bảng, nghệ sĩ danh tiếng có thói làm dáng là phải tả khuynh thì mới đáng được coi là người trí thức. Do đó, bọn cán bộ tuyên truyền Cộng sản đã dần dần nhồi nhét vào đầu óc thanh niên (các nhà lãnh đạo tương lai) lối sống phóng túng.

Rất có thể Tổng thống John Kennedy bị “Deep State” thanh toán, bởi vì đọc bài diễn văn trong buổi lễ tuyên thệ có câu “Ask not what your country can do for you – ask what you can do for your country” để kêu gọi lòng yêu nước của thanh niên, tức là đi ngược lại chủ trương “Vô Tổ Quốc” của Cộng sản. Phải “Vô Tổ Quốc” thì mới thực hiện được “Thế giới đại đồng”

Tỷ phú Donald Trump là một nhà ái quốc bén nhạy chẳng khác gì hai ông Tướng George Patton và Tướng Douglas MacArthur. Từ năm 1995, khi trả lời cuộc phỏng vấn của Oprah Winfrey và Larry King, nhà tỷ phú Donald  Trump đã tỏ ra ưu tư về sự xuống dốc của Hoa Kỳ.

Bà Oprah Winfrey hỏi ông có tính ra tranh cử Tổng thống để phục hồi sức mạnh của nước Mỹ, ông trả lời: “Không! Tôi rất hạnh phúc với những công việc của tôi đang làm. Tôi trông chờ có một lãnh tụ yêu nước xuất hiện để làm công việc cứu nước!”

Tháng 9 ngày 11 năm 2001, xảy ra vụ khủng bố do những chiến binh Hồi Giáo quá khích dùng phi cơ thương mại đâm vào Pentagon và Twin Towers. Câu hỏi đặt ra: “Tại sao sự kiện khủng khiếp đó xảy ra vào Tháng 9 Ngày 11”? Tôi đã tự đặt câu hỏi đó cho mình rất nhiều lần. Phải chăng Chúa báo trước cho nhân dân Hoa Kỳ điều gì? Bởi vì “một sợi tóc rơi là ý Chúa”, thì không lẽ con số “911” là tình cờ? Con số “911” mà người Hoa Kỳ dùng để báo động khi có điều gì nguy nan cần đến sự cấp cứu! Lần đầu tiên nước Mỹ bị tấn công từ bên trong bởi chiến binh Hồi giáo.

Phải chăng Chúa Jesus báo động cho nhân dân Mỹ biết sẽ bị kẻ thù tấn công từ bên trong?

Quả nhiên, năm 2008, tỷ phú George Soros là một người Hung Gia Lợi, gốc Do Thái, nhập Quốc tịch Mỹ, có tư tưởng Mác-xít đưa một người Da Đen – Barack Hussein Obama – có tín ngưỡng Hồi giáo, đệ tử hàng đầu của thủ lĩnh Cộng sản Frank Marshall Davis lên làm Tổng thống. Theo ông David Horowitz, tác giả cuốn sách “The Last Battle”, viết: “tình trạng của nước Mỹ hiện nay không phải ngày một ngày hai mà nó xảy ra”. Tức là Cộng sản đã nhồi vào đầu óc quần chúng Mỹ tư tưởng phản quốc, thì George Soros mới đưa Barack Obama lên làm Tổng thống được.

Năm 2015, nhận thấy đường lối lãnh đạo của Barack Hussein Obama quá tai hại cho tương lại nước Mỹ, Tỷ phú Donald Trump tuyên bố ra tranh cử Tổng thống để “drain the Swamp”, thì mới mong cứu nguy nước Mỹ. Là một người chưa hề tranh một chức vụ dân cử nào, nhưng tỷ phú Trump đã đánh bại tất cả 16 nhân vật có thành tích trong đảng trong đảng Cộng Hòa, để ra đấu với bà Hillary Clinton, từng làm Nghị sĩ, Bộ trưởng Ngoại giao. Không ai nghĩ ông Trump sẽ thắng, vì bà Hillary được Obama dùng mọi thủ đoạn để hỗ trợ cho bà và bà còn được Truyền thông Cánh tả dồn mọi nỗ lực đánh bóng bà. Tuy bị bọn Truyền thông Cánh tả dựng đứng những điều rất bẩn thỉu để bôi nhọ, nhưng cuối cùng tỷ phú Donald Trump chiến thắng.

Sự chiến thắng chức Tổng thống của ông Trump là dấu hiệu thứ hai, Chúa Jesus đã chọn tỷ phú Donald Trump để phục hưng nước Mỹ với chương trình “Make America Great Again”. Tổng thống Barack Hussein Obama chẳng có thành tích gì đáng kể, lại được Nobel trao giải thưởng Hòa Bình. Trong khi đó, Tổng thống Donald Trump thể hiện thỏa ước hòa bình Abraham giữa Israel với Khối Ả Rập ở Trung Đông và trong thời gian ông cầm quyền, không một người chiến sĩ Hoa Kỳ nào tử thương trên chiến trường, mà chẳng được truyền thông ca ngợi. Về phương diện Kinh tế, Quân sự, Ngoại giao, Tổng thống Donald Trump đều đoạt thắng lợi to lớn hơn tất cả Tổng thống tiền nhiệm. Mỗi lần đi vận động tranh cử, hàng trăm ngàn cử tri ủng hộ trên bộ, dưới sông, trên trời, cờ xí, biểu ngữ tung bay phấp phới. Ai cũng nghĩ Tổng thống Donald Trump chắc chắn sẽ tái đắc cử nhiệm kỳ II. Nhưng Tổng thống Donald Trump đã thất cử. Mười tám Tiểu bang gửi kháng cáo lên Tối Cao Pháp Viện, kết tội đảng Dân Chủ gian lận. Nhưng Tối Cao Pháp Viện gạt sang một bên, không cứu xét.

Sự thất cử nhiệm kỳ II của Tổng thống Donald Trump, theo tôi nghĩ, là do ý Chúa ra tay lần thứ III. Tại sao? Tại vì ý Chúa muốn cho nhân dân Hoa Kỳ thấy được bộ mặt phi dân chủ và trò bẩn thỉu hạ cấp  của đảng Dân Chủ để đoạt Chính Quyền. Ngoài ra, Chúa cũng muốn cho Tổng thống Trump thấy được sự phản bội của những cộng sự viên do ông chỉ định. Nếu Tổng thống Donald Trump đắc cử nhiệm kỳ II, thì làm sao thấy được sự phản bội của Phó Tổng thống Mike Pence và của nhiều nhân vật thân tín khác? Đó là dấu hiệu thứ Ba mà Chúa Jesus đã ra tay!

Mặc dầu bị đảng Dân Chủ đưa ra kiện trước Tòa Án cả chục lần, ông Trump vẫn không bị bỏ tù. Đảng Dân Chủ bèn bắt chước Công An Việt Cộng tấn công trang trại của anh Đoàn văn Vươn, FBI của Tổng thống Joe Biden tấn công biệt thự Mar-A-Lago giống như một bầy thảo khấu, cũng chẳng tìm ra một tài liệu gì để tố giác Tổng thống Donald Trump vi phạm Hiến Pháp.

Cuộc ám sát xảy ra vào ngày 13 tháng 7 năm 2024 tại Quân Butler, Tiểu bang Pennsylvania bất thành là nhờ sự che chở của Chúa. Hành động anh hùng của Tổng thống Donald Trump khi đưa nắm đấm tay lên cao và hô lớn “Fight! Fight! Fight!”, làm cho cử tri liên tưởng đến bức tượng những người lính Mỹ dựng ngọn cờ Hoa Kỳ tại hòn đảo Iwo Jima vào ngày 23 tháng 2 năm 1945. Tỷ phú thiên tài Elon Musk vốn là người ủng hộ đảng Dân Chủ, nhìn thấy hình ảnh yêu nước hào hùng của Tổng thống Donald Trump, khiến ông đã hết lòng ủng hộ Tổng thống Trump bằng tiền bạc và bằng công sức đi vận động. Nếu Chúa không cứu Tổng thống Donald Trump lần thứ tư này, Tổng thống Donald Trump tử thương, ai biết được ngày hôm nay nước Mỹ ra sao?

Vậy có phải Chúa Jesus đã ra tay cứu Tổng thống Donald Trump không? Chính Tổng thống Donald Trump cũng nhìn nhận Chúa Jesus cứu ông là Chúa muốn trao cho ông một sứ mạng để chiến đấu chống lại thế lực Ma Quỷ ở Đầm Lầy. Chưa hết! Một tài năng xuất chúng chưa hề có trong lịch sử nhân loại mà người ta cho là nhân vật từ một hành tinh khác đến. Đó là Elon Musk tự nguyện giúp Tổng thống Donald Trump tìm ra sự thối nát, tham nhũng trong nhiều cơ quan của Chính Quyền Hoa Kỳ. Thú vị nhất là có người đến 360 tuổi mà vẫn còn được lãnh tiền an sinh xã hội. Chỉ không đầy 100 ngày, Bộ Hiệu Lực (DOGE) đã tìm ra rất nhiều điều dơ bẩn không một ai có thể tưởng tượng nổi. Nếu Chúa không ban phép lạ Elon Musk, thì ai có thể tìm ra được trò ăn cắp của đảng Dân Chủ?

Sự xuống cấp của đảng Dân Chủ về nhân cách cũng quá rõ ràng. Thượng Nghị sĩ Ted Crux công khai tố giác với quốc dân: “Đảng Dân Chủ là một đảng cướp vì bênh vực tội giết người, hãm hiếp của bọn di dân và bất cần đếm xỉa đến nỗi đau của nạn nhân Hoa Kỳ. Đảng Dân Chủ là đảng của những đứa ăn cắp vì hùng hổ chống lại biện pháp trong sạch hóa bộ máy Chính Quyền”.

Câu hỏi đặt ra: Tại sao đảng Dân Chủ từng có những nhà lãnh đạo đáng kính như Tổng thống Franklin Roosevelt, như John Kennedy, mà ngày nay lãnh đạo đảng Dân Chủ trở thành bọn phản quốc và nhân cách đồi bại? Rất dễ dàng trả lời câu hỏi này. Tại vì đảng Dân Chủ đi theo sự dẫn dắt của Deep State để tự biến mình thành những con quái vật dưới đầm lầy, nhằm đưa nước Mỹ “tiến lên Xã Hội Chủ Nghĩa”. Tổng Bí thư Mikhail Gorbachev sau khi giải tán đảng Cộng sản Liên Xô thú nhận: “Tôi đã bỏ nửa cuộc đời hy sinh cho lý tưởng Cộng sản. Ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà thú nhận rằng, Cộng sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá”.

Một người tử tế, có giáo dục mà theo Cộng sản, tất yếu sẽ trở thành lưu manh, gian ác ngay.

Bọn truyền Thông Cánh tả của Mỹ là một bè lũ đáng khinh, vì đã từ bỏ phương châm cao quý “Fair – Balance – Accurate” để lãnh đạo tư tưởng quần chúng hướng đến chân, thiện, mỹ mà dính tới đầu óc “Marxist” thì chỉ biết tuyên truyền và nói dối.

Tôi vốn là một Phật tử truyền thống. Gọi là Phật tử truyền thống, vì ông bà tôi, cha mẹ tôi đều thờ Phật. Nhưng khi tôi nhìn thấy sự mầu nhiệm của Chúa Jesus giúp Tổng thống Donald Trump bảo vệ nước Mỹ, tôi quyết định xin rửa tội theo chân Chúa để cùng vác Thánh Giá với nhà ái quốc. Tôi chọn Ngày Lễ Phục Sinh để rửa tội và chọn Giáo hoàng John Paul II làm Thánh Bổn Mạng. Bởi vì câu nói: “Nếu xe-tăng của Hồng Quân Nga tiến vào Thủ đô Warsaw, Ngài sẽ cởi áo Giáo Hoàng, về Ba Lan chiến đấu cho Tổ Quốc”, chứng tỏ Ngài dám lìa bỏ địa vị chủ chăn trên thế giới, để về nước làm nghĩa vụ công dân. Đối với tôi, ủng hộ Tổng thống Donald Trump trong công cuộc cứu nước là nghĩa vụ phải thi hành để đền ơn Quốc gia đã cưu mang mình và gia đình mình. Trong Công giáo, Đức Vâng Lời đặt lên hàng đầu. Tuy nhiên, tôi không đồng tình với Giáo Hoàng Francis, khi Ngài tuyên bố “Xây cầu, chứ sao lại xây tường” để chê trách Tổng thống Donald Trump không có lòng nhân đạo.

Có lẽ Ngài Francis sống trong tháp ngà của điện Vatican, nên không biết nước Mỹ đang gặp phải một thảm họa ghê gớm và Chúa chọn tỷ phú Donald Trump để bảo toàn nền văn minh Kitô giáo mà bọn Chống Chúa (Anti-Chris) đang âm mưu đánh đổ. Giá như Ngài Francis hiểu rằng nếu bà Hillary đắc cử Tổng thống năm 2016, nhân dân nước Mỹ sẽ bị bắt buộc thờ Karl Marx-Lenin, thì ngôi vị Giáo Hoàng chẳng còn và Tòa Thánh Vatican trở thành địa điểm du lịch.

Chúa Jesus Christ xuống trần gian để chống lại bọn giả hình (hypocrite), bọn thu thuế, bọn dối trá và bảo vệ giới nghèo khổ. Chương trình “Make America Great Again” của Tổng thống Donald Trump chính là lộ trình mà Chúa Jesus mong muốn.

Bọn chính trị gia Dân Chủ đúng là bọn giả hình, mở toang cửa biên giới để cho những phần tử tội phạm tràn vào phá hoại đất nước, trong khi đó nhà riêng của họ thì kín cổng cao tường.

Tổng thống Trump chống lại bọn Dân Chủ trả tiền khách sạn hạng sang để nuôi báo cô di dân bất hợp pháp, ắt phải lấy tiền thuế của dân bỏ túi riêng.

Tổng thống Trump chống lại bọn nhà báo “Fake News” tức là đề cao sự thật, chống dối trá.

Tổng thống Trump có biện pháp mang những hãng xưởng ở ngoại quốc về lại Mỹ. Tổng thống Trump bắt buộc giảm giá thuốc, không đánh thuế tiền “boa” và tiền làm giờ phụ trội (overtime) là bảo vệ dân nghèo một cách thiết thực. Tại sao Ngài Francis không thấy Tổng thống Donald Trump thay Chúa làm công việc mà Chúa dạy dỗ tín đồ? Đạo Công giáo có Giáo Hoàng. Đạo Chính Thống giáo (Orthodox) có Thượng Phụ (Patriarch), thì Donald Trump cũng xứng đáng là một Giáo Hoàng của đạo Tin Lành lắm chứ!

Vừa rồi, có một sự kiện lạ mà từ ngày lập quốc chưa từng xảy ra trong lịch sử nước Mỹ. Đó là vị Hồng Y Robert Francis Prevost sinh đẻ tại nước Mỹ được bầu làm Giáo Hoàng Leo. Giống như trường hợp của tỷ phú Donald Trump không ai ngờ ông Trump sẽ là Tổng thống Hoa Kỳ, Hồng Y Prevost vừa được tấn phong hơn một năm, ít ai biết tới thành tích, chẳng ai ngờ Ngài sẽ là Giáo Hoàng, nhưng được đích thân Chúa Jesus hay Chúa Thánh thần chọn là có mục đích chỉ cho Giáo Hoàng Leo XIV phải hợp tác với Tổng thống Donald Trump đánh đổ Đạo Marxist để cứu nước Mỹ đang bị bọn Anti-Christ quỳ lạy ông Thánh George Floyd để trị vì nước Mỹ.

Xin Giáo Hoàng Leo XIV phải hiểu rằng chỉ có nước Mỹ hùng mạnh thì mới có thể chế ngự nổi tham vọng bành trướng của Trung Cộng để thống trị nhân loại nhằm biến quả địa cầu thành hỏa ngục trên trần gian. Chúa Jesus Christ bảo vệ sự sống, Tổng thống Donald Trump cũng bảo vệ sự sống. Trong khi đó đảng Dân Chủ làm tay sai cho Đạo Karl Marx tiêu diệt sự sống.

Trước khi bầu Giáo Hoàng, Hồng Y Gerhard Muller viết một bài tham luận giống như là một hướng dẫn (guideline) để chọn Giáo Hoàng: “Các Hồng Y đồng viện hãy từ chối các tiêu chí trần tục khi chọn vị Giáo Hoàng mới. Thay vào đó, hãy tập trung vào một người sẽ duy trì sứ mệnh thiêng liêng của Thánh Phêrô. Nếu đặt các giá trị của mình dựa trên truyền thông đại chúng, các Hồng Y đồng viện sẽ có thể chọn một vị Giáo Hoàng “lạc giáo”.

Đúng thế! Ở địa vị lãnh đạo tinh thần 1.4 tỷ tín đồ, Giáo Hoàng không nên nghiêng về xu hướng bảo thủ hay cấp tiến để làm hài lòng phe này hay phe kia. Giáo Hoàng được các Hồng Y bầu lên là để thay mặt Chúa, chứ không phải là người phàm để có thể nói rằng “tôi là ai mà dám phán xét người khác”. Tổng thống Donald Trump tuyên bố: “Nước Mỹ chỉ có hai giống: đàn ông và đàn bà” là vâng theo lời Chúa dạy, bất chấp sự khen chê của truyền thông đại chúng. Do đó, phong cách của Tổng thống Donald Trung đúng là cương vị của nhà lãnh đạo, chứ không chạy theo thị hiếu hay xu hướng thời thượng của quần chúng.

Thiên Chúa cho loài người quyền tự do lựa chọn. Kẻ nào đi theo Ánh Sáng, kẻ đó sẽ đến bến bờ hạnh phúc vĩnh viễn. Kẻ nào chạy theo Bóng Tối, kẻ đó tự nguyện đi vào địa ngục. Tôi tin tưởng rằng Chúa Jesus chọn một người Mỹ làm Giáo Hoàng là để phục hưng nước Mỹ. Bởi vì, nếu nước Mỹ rơi vào tay đảng Dân Chủ, tay sai của Con Quỷ Cộng Sản Trung Hoa, thì coi như tận thế! Mời quý vị hãy xem Video dưới đây thì sẽ rõ:

https://www.youtube.com/watch?v=9VY8cdDFIgA

Bằng Phong Đặng văn Âu. Ngày 13 tháng 5 năm 2025.

Địa chỉ Email: bangphongdva033@gmail.com  Telephone: 714 – 276 – 5600