Chiến Dịch Đông Tiến tới Cái Chết của
Chiến Hữu "Chủ Tịch" Hoàng Cơ
Minh.
Lời Mở Đầu: Bài viết này được
đúc kết lại từ nhiều nguồn, từ những cựu kháng chiến quân, đến cả các báo của
cộng sản Việt Nam, phát hành trong nước. Chúng tôi đối chiếu và gạn lọc
lại với một tâm tư ước mong duy nhất đó viết lên sự thật về Mặt Trận Hoàng Cơ
Minh, từ lúc bắt đầu hoạt động đến những phút cuối cùng của cái gọi là “Mặt
Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam”. Hầu cống hiến đến đồng hương Hải
Ngoại một cách tường tận, từng diễn tiến chiến dịch Đông Tiến đưa đến cái kết
của “Phong Trào Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh”.
Chủ tịch Mặt trận quốc gia thống nhất giải
phóng Việt Nam - Tiền thân của Đảng Việt Tân.
23 giờ ngày 18/7/1987, nhóm kháng chiến Hoàng Cơ Minh lên đường,
đi đầu là “Quyết đoàn Tiền phương”. Càng đến gần biên giới Thái - Lào, các
kháng chiến quân càng hoang mang, lo sợ vì họ biết chuyến đi này
không phải để dàn cảnh, quay phim, mà dữ nhiều, lành ít.
Chủ Tịch Hoàng Cơ
Minh.
Cách đây hơn 30 năm -
ngày 28/8/1987, trên đường xâm nhập qua lãnh thổ nước Lào để vào Việt Nam, nhằm
thực hiện âm mưu, lật đổ chính quyền cộng sản, Hoàng Cơ Minh, nguyên Phó
đề đốc Hải Quân VNCH, người cầm đầu tổ chức kháng chiến gọi
là "Mặt trận quốc gia thống nhất giải phóng Việt Nam", đã bị các lực
lượng vũ trang bộ đội Lào phát hiện, truy đuổi và bắn bị thương tại
vùng Bản Pon, tỉnh Xa La Van.
Sau đó, do lo sợ bị bắt, cũng như đoán trước
được kết cục dành cho mình, Hoàng Cơ Minh tự sát.
Chiến dịch Đông tiến 2.
Sau khi “chiến dịch
Đông tiến 1” tổ chức hồi tháng 8/1986 thất bại, bị cộng đồng người Việt hải
ngoại vạch trần âm mưu bịp bợm vì thực chất của “chiến dịch” này, chỉ là đưa
một nhóm tay chân về vùng rừng núi biên giới tiếp giáp giữa Thái Lan, Lào, dưới
vỏ bọc công nhân liên doanh lâm nghiệp, và sau đó cho mặc quần áo rằn ri, vai
đeo balô, tay cầm súng, lăn lê bò lết để quay phim, chụp ảnh, đưa về Mỹ
tuyên truyền rằng, “mặt trận” đã thành lập được nhiều “khu chiến” bên trong
lãnh thổ Việt Nam, thì Hoàng Cơ Minh, chủ tịch “Mặt trận quốc gia thống nhất
giải phóng Việt Nam” (từ đây gọi tắt là Mặt trận Hoàng Cơ Minh) cùng đám tay
chân thân tín nhận ra rằng, trò lừa đảo của “mặt trận” đang có nguy cơ đổ bể.
Nếu như trước kia, hệ
thống "phở Hòa", tàu đánh cá, nhà in – là cơ quan kinh tài của
“mặt trận”, có chi nhánh trên nhiều Tiểu bang của nước Mỹ, liên tục kêu gào
cộng đồng người Việt đóng góp phần ủng hộ “kháng chiến”, thì nay dù
thúc ép, thậm chí hăm dọa, cũng chẳng còn ai tin. Những cuộc biểu tình do “mặt
trận” tổ chức, người tham dự cũng ngày càng thưa thớt.
Đã thế, trong nội bộ “mặt trận” lại xuất hiện sự chống đối,
nhiều người thẳng thừng gọi tổ chức Hoàng Cơ Minh là “kháng chiến bịp”,
Hoàng Cơ Minh là chủ tịch lừa.
Vì thế, "ngài" Chủ Tịch quyết
tâm tiến hành một chiến dịch nữa nhằm tạo tiếng vang và lấy lại uy tín, hầu dễ
bề quyên góp tiền bạc. Đầu tháng 7/1987, ông cho di chuyển
khoảng 100 kháng Chiến Quân (cả số đang còn ở lại ở
biên giới Thái Lan, Lào sau “chiến dịch Đông tiến 1”, lẫn số từ Mỹ sang), đến
một khu rừng thuộc tỉnh UBon – Thái Lan, rồi móc nối với bọn thổ phỉ người Lào
để thuê bọn này dẫn đường vượt qua đất Lào.
Theo kế hoạch – được Hoàng Cơ Minh đặt tên là “chiến dịch Đông tiến 2”, đoàn kháng
chiến quân chia thành 4 bộ phận: Đó là “Quyết đoàn Tiền Phương”,
gồm 40 người do Phan Thanh Phương làm Quyết đoàn trưởng (mỗi Quyết đoàn
lại chia thành nhiều Dân đoàn, mỗi Dân đoàn gồm 9, 10 người), có nhiệm vụ
mở đường. “Quyết đoàn Bắc Bình”, gồm 29 kháng chiến quân do Lê Đình
Bảy làm Quyết đoàn trưởng, đi giữa. Bộ chỉ huy chiến dịch gồm Hoàng Cơ Minh,
Nguyễn Huy, Trần Khánh, Võ Hoàng (là ủy viên trung ương mặt trận) cùng một
số chiến sĩ chóp bu khác.
Đoàn kháng chiến
quân "tuyên thệ" trước khi lên đường Đông Tiến.
Đi sau cùng là “Quyết
đoàn Anh dũng” gồm 40 kháng chiến quân, do Khu Xuân Hưng làm Quyết đoàn
trưởng. Các Quyết đoàn ngoài vũ khí cá nhân như súng AK, M16, lựu đạn, mìn
claymore, còn có một hoặc hai khẩu B40, B41, và vài máy bộ đàm tầm hoạt động
khoảng 3 cây số.
Tất cả những thứ
ấy, mặt trận mua lại từ các nhóm thổ phỉ Lào hoặc từ các chợ trời vũ
khí dọc theo biên giới Lào, Thái Lan. Riêng bộ chỉ huy của Hoàng Cơ Minh, còn
được trang bị thêm 2 khẩu súng cối cá nhân M79. Quần áo, giày dép, mũ
nón sử dụng cũng vậy, hầu hết đều mua ở chợ trời biên giới với đủ chủng loại.
Về lương thực,
mỗi kháng chiến quân mang trên lưng 20 - 30kg, gồm gạo, mì ăn
liền, mắm muối, nồi niêu xoong chảo. Bên cạnh đó, các Quyết đoàn còn được cấp
một ít tiền để mua lương thực nếu đi ngang thôn bản người Lào. Riêng các Quyết
đoàn trưởng và các Ủy viên mặt trận, Hoàng Cơ Minh giao cho mỗi kháng
chiến quân từ 2 đến 5 lượng vàng, một số tiền đô la Mỹ và đồng
bạt Thái Lan để... hối lộ bộ đội Lào nếu bị bắt!
Theo kế hoạch,
cả toán Đông Tiến sẽ vượt sông Mê Kông, sang tỉnh Xa La Van – miền
Nam nước Lào rồi từ đó, dưới sự dẫn đường của 20 tên thổ phỉ Lào, toán sẽ
đi về tỉnh Sê Kông và xâm nhập khu vực ngã ba biên giới, thuộc tỉnh Kon Tum,
Việt Nam. Tại đây, toán kháng chiến sẽ lập căn cứ, tiến hành phục
kích xe cộ, đặt mìn phá cầu, tấn công các đồn biên phòng Việt Nam để gây tiếng
vang, tạo cơ hội cho chiến binh ở lại bên Mỹ, thúc ép đồng hương người
Việt góp thêm tiền ủng hộ...
23 giờ ngày
18/7/1987, đoàn kháng chiến quân Hoàng Cơ Minh lên đường, đi đầu
là “Quyết đoàn Tiền phương”. Càng đến gần biên giới Thái - Lào, mọi người càng
hoang mang, lo sợ, nhất là những vị chỉ huy các Quyết đoàn, dân đoàn
vì họ biết chuyến đi này không phải để dàn cảnh, quay phim, mà dữ
nhiều, lành ít. Khi chỉ còn cách điểm tập kết là bờ sông Mê Kông ngăn đôi hai
nước Lào, Thái Lan chừng 3km, Hoàng Cơ Minh sai “Quyết đoàn trưởng quyết đoàn
Tiền phương” Phan Thanh Phương, cử một Dân đoàn đi trinh sát.
Thế nhưng, 9 người trong
dân đoàn ấy chỉ đi khoảng 300 mét, rồi lủi vào bụi rậm nằm chờ đến giờ quay về
báo cáo. Tuy nhiên lúc quay về, thì một người trong “Dân đoàn” bỗng
dưng biến mất. (Do quá sợ hãi, gã vứt bỏ toàn bộ lương thực, súng ống, vạch
rừng mò ngược trở lại rồi sau một thời gian sống chui lủi, khi nghe tin toàn bộ
nhóm xâm nhập đã bị bắt hoặc bị giết, gã dạt về Campuchia, chạy xe ôm kiếm
sống, cạch mặt “mặt trận” tới già).
Tin một chiến
binh “Dân đoàn viên” bỏ trốn được Phạm Thanh Phương giấu kín vì sợ bị
Hoàng Cơ Minh trừng trị mặc dù Phương rất lo gã kia ra hàng cộng sản,
bộ đội Pathet Lào. Trong suốt ngày thứ hai, rồi ngày thứ ba của cuộc
xâm nhập, Phương đứng ngồi không yên, lúc nào cũng nơm nớp lo lắng.
Đám thổ phỉ Lào ở
riêng một góc, lo sợ không kém vì chúng được trả tiền để dẫn đường, nhưng Hoàng
Cơ Minh dùng dằng nửa đi, nửa ở khiến chúng như ngồi trên đống lửa.
Chúng không biết Hoàng Cơ Minh đang chờ một bộ phận nữa, là “đoàn đặc nhiệm” do
Nguyễn Quang Phục, biệt danh Hải “xâm” cầm đầu.
Đoàn đặc nhiệm này chỉ
gồm 7 kháng
chiến quân nhưng
hầu hết đã từng tham gia các sắc lính trong quân đội Sài Gòn nên dạn dày kinh
nghiệm, được Hoàng Cơ Minh đặc biệt tin tưởng. Thế nhưng, lúc nghe tin Hải “xâm”
không đến điểm hẹn vì bất ngờ lên cơn sốt rét, và cả “đoàn đặc nhiệm” còn cách
nơi tập kết khá xa, nên Hoàng Cơ Minh đành ra lệnh cho Hải “xâm” khi nào hết sốt,
sẽ dẫn quân đuổi theo các “Quyết đoàn”. Việc Hải “xâm” bị sốt ít nhiều gây
hoang mang trong hàng ngũ, và có tin đồn truyền tai nhau, rằng sốt chỉ là cái
cớ để Hải “xâm” được nằm lại.
Chập tối ngày 20/7/1987, mọi người
trong toán Hoàng Cơ Minh cùng nhắm hướng sông Mê Kông thẳng tiến. Tại
đây, nhóm thổ phỉ Lào đã thuê sẵn mấy chiếc ghe máy, mỗi chiếc có thể chở được
30 người nên việc vượt sông diễn ra êm ả. Nhưng ở bờ bên kia, là những vách đất
cao, trơn trượt nên các kháng chiến quân phải mất hơn 10 phút mới
trèo lên được.
Sau này, khi bị bộ đội Lào bắt, nhiều kháng chiến quân khai rằng,
tinh thần của hầu hết các “dân đoàn viên” đã rệu rã ngay từ khi vượt sông, và
cầu mong chỉ vào sâu trong đất Lào chừng vài cây số để quay phim, chụp hình rồi
rút về như “chiến dịch” trước. Thậm chí có người trong khi trèo lên
con dốc dựng đứng ở bờ sông, đã lén vứt đi mìn, lựu đạn và đạn.
Có người còn giả bộ ngã trặc chân để mong được cho ở lại. “Dân đoàn
viên” Nguyễn Văn Náo khai: “Lúc vượt sông, lợi dụng trời tối không ai để ý, tôi
thả xuống nước 2 băng đạn và 1 quả lựu đạn. Tôi tính nếu đụng trận, tôi sẽ tìm
cách trốn về Thái Lan”.
Vượt qua được bờ dốc, Hoàng Cơ Minh cho cả toán nghỉ đêm. Bên các bụi
tre, mọi người trong toán ngủ chập chờn trong tư thế ngồi co
quắp. Tờ mờ sáng, sau khi nhai trệu trạo mì gói vì không dám nổi
lửa, toán kháng chiến đi ngang một trảng lớn, cỏ mọc lưa thưa rồi bắt
đầu leo lên dãy núi đá, sườn núi đầy những bụi cây nhỏ.
Đến 9 giờ, khi mọi người đang ở ngang lưng chừng núi thì bất ngờ trên
trời có tiếng động cơ máy bay, rồi một chiếc máy bay trinh sát xuất hiện
khiến tất cả kháng chiến quân, người thì lủi vào bụi
cây, người lăn ra đất nằm im như chết.
Thoạt đầu, Hoàng Cơ Minh cùng bộ chỉ huy nhận định đây là sự trùng hợp ngẫu
nhiên. Nhưng khi thấy chiếc máy bay đảo đi đảo lại hai, ba vòng, họ liền
đặt câu hỏi, rằng đó chỉ là nhiệm vụ hàng ngày của Không quân Lào trên vùng
biên giới, hay họ ta đã bị lộ?
Khoảng 10 phút sau, chiếc máy bay trinh sát biến mất, Hoàng Cơ Minh ra lệnh
tiếp tục lên đường vì ông tin rằng sự xuất hiện của chiếc máy bay chỉ
là sự tình cờ. Các “Quyết đoàn”, “Dân đoàn” lầm lũi bước, mắt dáo dác nhìn
chung quanh. Gần tối, khi đến cạnh một con suối lớn, Hoàng Cơ Minh cho dừng
chân, bố trí đội hình phòng thủ và nấu cơm.
Bữa cơm một phần ăn với mắm kèm còn phần kia nắm lại, để dành hôm sau. Bốn
năm người – trong đó có Nguyễn Văn Dũng lén lút mang theo được
mấy bi đông rượu từ đất Thái, giờ tụm lại dưới bụi cây, chuyền tay nhau tu. Bị
“Dân đoàn trưởng” là Đỗ Bạch Thố phát hiện, chửi bới, Dũng toan chụp khẩu M16,
lia cho Thố một băng nhưng đồng bọn ngăn cản. Sau này khi Dũng kiệt sức, chính
tay Đỗ Bạch Thố đã dùng dây giày, xiết cổ Nguyễn Văn Dũng đến chết để trả
thù hành động Dũng định bắn mình.
Sáng ngày thứ 5 của chuyến xâm nhập, Các
kháng chiến quân khởi hành sớm. Lúc mặt trời lên, họ nhận ra địa
hình đang đi khá trống trải và nếu xảy ra đụng độ, sẽ chẳng khác gì phơi lưng
ra làm bia. Hỏi nhóm thổ phỉ Lào dẫn đường, thì chỉ nhận được câu trả lời là cứ
đi tiếp. Y như rằng, khoảng 8 giờ sáng, ở cuối đội hình bỗng vang lên từng loạt
súng.
Trận chạm súng giữa bộ đội Lào và nhóm kháng chiến quân đi đoạn hậu
diễn ra rất ngắn, cả hai bên không ai thương vong nhưng chứng tỏ rằng việc xâm
nhập đã bị lộ và điều này khiến tinh thần của hầu hết đoàn viên đều
hoang mang. Bất lợi hơn nữa là theo kế hoạch, các Dân đoàn, Quyết đoàn sẽ tìm
cách tiếp cận với những bản làng người Lào trên đường đi qua để mua thức ăn
tươi, cũng như tìm hiểu tình hình.
Nhưng nay cuộc chạm súng đã khiến toán kháng chiến phải lùi sâu vào rừng trong lúc gạo, mì
bắt đầu vơi dần. Đã vậy, số chiến binh từ Mỹ, Pháp, Nhật về, do
không quen với khí hậu, địa hình, không quen với cuộc di hành chỉ bằng đôi chân
nên đâm ra cáu kỉnh. Hầu như lúc nào cũng có những cuộc cãi vã – không ở Dân
đoàn này thì cũng ở Quyết đoàn khác. Gần 100 chiến binh xâm
nhập nhưng chỉ có 1 y tá. Các vết lở loét ở chân do giày thấm nước, vết rách ở
tay, ở cổ do đá cắt, gai cào, muỗi chích, vắt cắn, chỉ được rửa ráy, băng
bó sơ sài nên nhiều người bị nhiễm trùng, bước đi phải có kẻ xốc nách
hoặc chống gậy.
Sau cuộc chạm súng, Hoàng Cơ Minh hạ lệnh đi nhanh hơn. Đến 4 giờ chiều, lúc
lên tới một triền núi và khi mọi người chuẩn bị dừng chân qua đêm,
thì vài đoàn viên thuộc “Quyết đoàn Anh dũng” mò xuống những bụi tre phía dưới
kiếm măng tươi. Chỉ vài phút sau đó, đột ngột tiếng súng AK nổ từng loạt dài,
cùng tiếng la hét inh ỏi.
Lúc bọn lấy măng tháo chạy về, kiểm điểm lại thấy mất Nguyễn Văn Náo. Theo lời
bọn chúng, một toán bộ đội Lào đã bí mật bám theo, rồi bất ngờ tập kích, bắt
sống Nguyễn Văn Náo. Điều này rất nguy hiểm vì Hoàng Cơ Minh nhận định, nếu Náo
bị bắt, toàn bộ kế hoạch xâm nhập cũng như lực lượng và trang bị vũ khí của cả
đoàn, coi như hoàn toàn bị lộ.
Đã đâm lao thì phải theo lao. Quay về cũng dở mà ở cũng không xong, Hoàng Cơ
Minh ra lệnh đi tiếp. Đường đi càng lúc càng khó vì phải leo lên những tảng đá,
tảng nọ chồng tảng kia. Sẩm tối, khi toán đoạn hậu báo cáo không thấy dấu hiệu
bộ đội Lào đuổi theo, Hoàng Cơ Minh mới dám cho dừng chân nấu cơm gần một con
suối.
Để đề phòng, ông chỉ thị cho các Quyết đoàn trưởng, là từng Dân đoàn
lần lượt cử người xuống suối lấy nước chứ không đi đồng loạt. Lúc này, nhiều
bếp lửa đã được nhóm lên, “Dân đoàn viên” Trần Văn Thảo đang ngồi hong khô đôi
giày thì phát hiện bóng người thấp thoáng. Gã hỏi lớn: “Ai đó?". Phía bên
kia đáp lại một chữ ngắn gọn, nghe như tiếng Lào, rồi lập tức, hàng loạt đạn AK
quạt xối xả vào đội hình của đoàn, kèm theo những tiếng nổ tức ngực của
đạn B40. Một quả B40 nổ ngay cạnh bếp cơm của “Dân đoàn viên” Nguyễn Văn Hòa
khiến gã bật ngửa, chết tại chỗ.
Đến lúc ấy, cả đoàn vẫn chưa hay biết, rằng mọi người đã
bị một tổ bộ đội Lào tuần tra biên giới phát hiện ngay từ khi chúng đang
vượt sông Mê Kông. Và bởi vì lực lượng ở khu vực đó mỏng, hơn nữa chưa rõ
nhóm kháng chiến quân vượt sông có phải là nhóm đi đầu mở đường cho
những nhóm tiếp theo hay không, nên bộ đội Lào quyết định chỉ cử một toán nhỏ
bám theo, trinh sát, tìm cách bắt tù binh đưa về khai thác, điều tra...
Sau trận chạm súng đầu tiên kể từ khi nhóm kháng chiến quân đặt
chân lên đất Lào, dẫn đến việc Dân đoàn viên Trần Văn Náo bị bắt, rồi tiếp theo
là cuộc tập kích khiến Dân đoàn viên Nguyễn Văn Hòa bị thương, Hoàng Cơ Minh
cùng bộ chỉ huy “chiến dịch” hiểu rằng yếu tố bất ngờ đã không còn nữa.
Những cái chết
yểu trên đường xâm nhập.
Điều nguy hiểm nhất là
từ sự khai báo của Nguyễn Văn Náo, bộ đội Lào hẳn sẽ biết rõ sự có mặt của
Hoàng Cơ Minh, cũng như nhóm kháng chiến quân gồm bao nhiêu
người, vũ khí trang bị có những gì, tình hình lương thực ra sao. Dĩ nhiên, họ
cũng sẽ thông báo cho cộng sản Việt Nam biết về mục đích của nhóm kháng
chiến quân và như vậy, Hoàng Cơ Minh bị đặt vào thế “lưỡng đầu thọ
địch”.
Một điều bất lợi nữa: Theo hợp đồng thì nhóm thổ phỉ Lào sẽ chỉ dẫn đường cho toán kháng
chiến quân đến địa phận tỉnh Xa La Van, tiếp giáp tỉnh Sê Kông vì
chúng không dám đi vào sâu hơn. Nghe chúng trao đổi với nhau, Hoàng Cơ Minh
biết rằng chỉ nội ngày mai, nhóm thổ phỉ Lào sẽ rút.
Tuy nhiên, từng là Phó Đề Đốc trong quân đội VNCH, Hoàng Cơ Minh ít nhiều cũng hiểu về binh
pháp. Tiến hành họp với bộ chỉ huy, ông vạch ra chiến thuật “tương kế
tựu kế”. Đó là cho Nguyễn
Văn Hòa cùng “Chủ tịch mặt trận quốc nội” Nguyễn Thế Minh, theo nhóm thổ phỉ
Lào quay lại Thái Lan.
Động tác này có thể khiến toán trinh sát của bộ đội Lào tưởng lầm là kháng
chiến quân đã từ bỏ ý đồ xâm nhập, và sẽ chỉ bám theo, tấn công nhóm
thổ phỉ chứ không tiếp tục truy đuổi. Như thế, nhóm thổ phỉ và Nguyễn Văn Hòa,
Nguyễn Thế Minh sẽ trở thành mồi nhử, thành bia đỡ đạn cho cuộc “đông tiến”.
Hoàng Cơ Minh họp bàn
trước ngày xâm nhập.
Đêm hôm đó, kháng
chiến quân không dám nổi lửa nấu cơm, mà chỉ nhai mì sống cầm hơi. Mờ
sáng, khi sương mù còn dày đặc, cả bọn lên đường, khiêng theo Nguyễn Văn Hòa
trong tình trạng nửa mê, nửa tỉnh vì mất máu. Đến trưa, tên cầm đầu nhóm thổ
phỉ sau khi cùng Hoàng Cơ Minh xem lại bản đồ, thì ông đồng ý cho
Nguyễn Văn Hòa, và “Chủ tịch mặt trận quốc nội” Nguyễn Thế Minh theo chúng,
quay lại biên giới Lào, Thái. Nhưng rất nhiều năm sau đó, chẳng ai còn nghe
được bất cứ một tin tức gì về Minh và Hòa.
Mãi đến năm 1998, một thông tin nhỏ mới được tiết lộ trên một tờ báo của người
Việt ở Mỹ. Ấy là một nông dân Lào khi vào rừng chặt cây làm nhà, đã gặp
bọn thổ phỉ đang rút lui. Nghe
chúng nói chuyện, rằng tự dưng lãnh cái của nợ phải khiêng là Nguyễn Văn Hòa,
nên chúng giết y chết. Mà nếu đã giết Hòa chết, thì dĩ nhiên phải giết cả
Nguyễn Thế Minh.
Trở lại chuyện xâm nhập, khi bọn thổ phỉ vừa đi khỏi, Hoàng Cơ Minh cho các “Quyết
đoàn” rải ra, hình thành những cụm phòng ngự với mệnh lệnh súng ống trên tay
sẵn sàng chiến đấu, không nấu cơm, không ra suối lấy nước, không giăng võng hay
dựng lều. Suốt buổi chiều rồi cả đêm, kháng chiến quân thức trắng
trong tâm trạng lo âu vì sợ bị tập kích.
Gần sáng, nghĩ là đã đánh lừa được toán truy đuổi, cả đoàn lục tục
kéo nhau lên đường. Đi khoảng 30 phút, Quyết đoàn trưởng Quyết đoàn Anh Dũng
là Khu Xuân Hưng nhận được tin báo, rằng Dân đoàn trưởng Hà Hoài Hùng đã bỏ
trốn cùng với chiếc balô đựng tiền, vàng của Quyết đoàn.
Đây là trường hợp bỏ trốn thứ hai khiến Khu Xuân Hưng rất hoang mang vì từ lâu,
Hà Hoài Hùng vẫn được Hoàng Cơ Minh tin cậy. Vì thế, một mặt, anh cử
người lên bộ chỉ huy báo cho Hoàng Cơ Minh. Mặt khác, anh sai 4 Dân
đoàn viên quay lại tìm Hùng với mệnh lệnh “nếu không gọi về được thì lấy chiếc
ba lô rồi bắn bỏ”.
Nhưng 4 gã Dân đoàn viên vừa quay lưng, thì có tiếng AK và B40 nổ dồn dập ở
phía xa. Điều này chứng tỏ bộ đội Lào vẫn bám theo nhóm kháng chiến quân,
và Hà Hoài Hùng trên đường bỏ trốn, đã gặp họ.
Từ đó cho tới khi bị đánh tan tác, không còn ai nghe được tin gì về Hà Hoài
Hùng.
Đã là ngày thứ 10 của cuộc xâm nhập, mà nhóm kháng chiến quân vẫn
chưa đến được tỉnh Sê Kông vì thiếu người dẫn đường, sự di chuyển dựa vào những
tấm bản đồ do quân đội Mỹ vẽ từ năm 1972. Vì thế, có những đoạn chỉ cần lội
xuống khe rồi đi vòng chừng 6 tiếng là đã vượt qua được dãy núi, nhưng kháng
chiến quân lại phải leo trèo suốt 2 ngày. Lương thực càng lúc càng
cạn, bữa cơm 1 phần gạo thì có đến 3 phần củ rừng. Quần áo không giặt nên bốc
mùi hôi hám. Hầu hết đều bị ghẻ do muỗi, vắt cắn.
Việc Hà Hoài Hùng bỏ trốn – rồi sau đó súng nổ khiến Hoàng Cơ Minh hiểu rằng kế
ly gián đã thất bại. Trước ngày lên đường, tin tình báo của nhóm thổ phỉ Lào
cho biết trên địa bàn tỉnh Xa La Van, bộ đội Lào có khoảng 1 Trung đoàn, chưa
kể dân quân, du kích địa phương. Quân số của một Trung đoàn khoảng gần 3.000
người, được trang bị, tiếp tế đầy đủ trong lúc nhóm kháng chiến chỉ gần 100 người nên
nếu chạm nhau trực diện, thì chết là cái chắc.
Sáng ngày thứ 12 trong lúc các dân đoàn viên, kẻ loay hoay tháo võng, kẻ nấu
cơm thì bất ngờ, có tiếng súng nổ dồn dập từ phía Quyết đoàn đi đoạn hậu. Lợi
dụng lúc các kháng chiến đang chuẩn bị di chuyển, toán trinh sát
bộ đội Lào bất ngờ tập kích rồi nhanh chóng biến mất. Kiểm điểm lại, chỉ có
Huỳnh Văn Tiến bị thương nặng vì mảnh B40.
Y tá Lý Hổ được gọi đến nhưng trước khi đến, “Ủy viên trung ương mặt trận”
Nguyễn Huy kéo Lý Hổ ra một góc, nói nhỏ vài câu. Băng vết thương cho Tiến
xong, Lý Hổ chích cho gã một mũi thuốc. Vài phút sau, Tiến nấc lên, mắt trợn
ngược. Lúc này, cả nhóm kháng chiến thuộc Quyết đoàn Anh dũng
đều biết rằng Nguyễn Văn Tiến đã bị chích thuốc cho chết, để khỏi trở thành
gánh nặng cho cả đoàn. Xác Nguyễn Văn Tiến bọc trong mảnh nylon, kéo lá rừng
phủ lên vì chẳng còn thời gian đào huyệt. Tài sản của Tiến, mỗi người lấy một vài món.
Riêng phần cơm mà lẽ ra sẻ chia cho Nguyễn Văn Tiến ăn bữa sáng, thì Dân đoàn
viên Thạch Chen bỏ ngay vào trong balô.
Sau khi bị tập kích, kháng chiến quân được lệnh đi nhanh hơn
nhưng tốc độ xem ra cũng chỉ được khoảng 3km mỗi giờ. Một phần vì địa thế hiểm
trở, phần nữa vừa đi vừa dò dẫm. Suốt buổi sáng, tình hình yên tĩnh nhưng đến
giữa trưa, đột ngột từng loạt đạn súng cối nổ tung giữa đội hình Quyết đoàn Anh
dũng. Lúc này, kháng chiến quân đang ở trên một đỉnh núi.
Trong những ngày cuối cùng của “chiến dịch Đông tiến 2”, nhóm kháng chiến Hoàng
Cơ Minh chỉ còn chưa đầy 40 người, hầu hết đều bị thương hoặc kiệt sức vì
đói. Lương thực mang theo cạn kiệt nên nhiều người dù muốn trốn, cũng
chẳng biết về đâu. Hơn nữa, các bản án tử hình mà Hoàng Cơ Minh thi hành với
đồng đội khi phát hiện âm
mưu đào ngũ đã làm mọi người kinh sợ.
Ngày tàn của kháng
chiến quân.
Trước khi “chiến dịch Đông tiến 2” bắt
đầu, Hoàng Cơ Minh quyết định giết bác
sĩ Nguyễn Hữu Nhiều, Ngô Chí Dũng vì cho là chống đối, giết Trần Tuyết Ánh, A Hừng, Bùi Duy Hiền, Lưu Tuấn
Hùng, Võ Sĩ Hùng, Đào Văn Lâm do nghi ngờ bỏ trốn, giết Thạch Kim Ca, Trần Tự
Nhiên... vì nghi là nội gián.
Trên đường hành quân, Hoàng Cơ Minh còn cho các Quyết đoàn trưởng, Dân đoàn
trưởng được quyền giết những tên thương binh như Nguyễn Văn Dũng, Nguyễn Anh
Điền, Nguyễn Văn Hiếu, Nguyễn Văn Hòa..., hoặc bỏ mặc nằm chết giữa rừng để
khỏi phải khiêng, cáng. Ngay cả Lê Hồng
(bí danh Đặng Quốc Hiền), cựu trung tá Nhảy Dù quân đội VNCH,
được Minh phong làm “thiếu tướng, tư lệnh quân kháng chiến”, cũng bị Hoàng Cơ
Minh giết vì đã dám chất vấn Minh về những mờ ám trong việc sử dụng tiền.
Sáng 24, nghĩa là đúng 1 tháng 6 ngày kể từ
khi “chiến dịch Đông tiến 2” bắt đầu, kháng chiến quân tiến gần
đến bản Phón, thuộc tỉnh Xa La Van. Đêm hôm trước, lại có thêm 3 người bỏ trốn là Phạm Hoàng
Tùng, Hà Văn Lâm và Đặng Quốc Hùng. Trốn khoảng nửa
ngày, họ mới gặp Nguyễn Văn Thông, cũng đang trốn nên cho đi cùng.
Lúc đi hái măng, Phạm Hoàng Tùng bị lạc rồi bị bộ đội Lào bắt sống. Hai ngày
sau, 3 người còn lại cũng bị bắt vào trại giam.
Trở lại chuyện bản Phón, từ trên đỉnh núi nhìn xuống thấy mấy nóc nhà, Đinh Văn
Bé, khi đó được đưa lên làm “Quyết đoàn trưởng”, đã đề nghị Hoàng Cơ Minh cho 2
Dân đoàn viên vào bản mua lương thực với mệnh lệnh “không mua được thì cướp”.
Tài sản duy nhất mà đoàn kháng chiến còn lại là 5 chỉ vàng, do
Hoàng Cơ Minh giữ, được lấy ra đưa cho Trần Văn Yên và Huỳnh Văn Miền. Cũng cần
nhắc lại khi thành lập “Mặt trận quốc gia thống nhất giải phóng Việt Nam”, bên
cạnh hệ thống kinh tài là một chuỗi những tiệm “phở Hòa”, Hoàng Cơ Minh
và nhóm cầm đầu như Hoàng Cơ Định, Phạm Văn Liễu, Nguyễn Kim còn tổ chức
nhiều đợt quyên góp trong Cộng đồng người Việt hải ngoại dưới chiêu bài “ủng
hộ kháng chiến”. Và nếu ai không đóng góp, thì bị họ chụp cho cái
mũ “cộng sản nằm vùng”, rồi cho tay chân hành hung, hăm dọa, thậm chí ám sát mà
cụ thể là giết vợ chồng nhà báo Lê Triết khi Triết cho đăng loạt bài vạch trần
sự bịp bợm của “mặt trận Hoàng Cơ Minh”.
Tổng số tiền nhóm Hoàng Cơ Minh thu được, theo số liệu của Cục Điều
tra Liên bang và Sở Thuế Mỹ sau này, là khoảng hơn 10 triệu USD. Phần
lớn số tiền ấy ngoài việc chui vào túi nhóm cầm đầu, họ còn
dùng để ăn chơi, du hí ở Nhật, Pháp, Thái Lan, Đức bằng hình thức “đi công
cán”, cũng như để mua lương thực, vũ khí, mua vàng cho các “chiến dịch Đông
tiến”.
Sau khi “chiến dịch” bị đánh tan nát, Hoàng Cơ Minh phải “hy sinh”, một
số chóp bu cầm đầu còn lại
lặng lẽ lấy tiền chia nhau, mua cổ phần trong những công ty chứng khoán, hoặc
lập những đội tàu đánh cá, và nó nghiễm nhiên trở thành tài sản riêng.
Cầm 5 chỉ vàng, Trần Văn Yên và Huỳnh Văn Miền xuống núi. Nhưng mới đi chưa
được 50 mét, một loạt AK vang lên đanh gọn, khiến Trần Văn Yên chết ngay tại
chỗ. Cùng lúc, tứ bề súng nổ giòn, cả tiếng AK lẫn tiếng đạn cối, đạn sơn pháo.
Huỳnh Văn Miền lủi vào một hốc đá, giơ khẩu M16 lên đầu, bắn bừa. Ở phía trên,
Hoàng Cơ Minh lăn xuống khe suối cạn, cánh tay trái máu tuôn xối xả vì mảnh đạn
cối ghim phải. Trên ghềnh đá bên bờ suối, Dân đoàn viên Tạ Hoàng Thiện lãnh
nguyên một trái M79 nổ tung vào mặt.
Lẫn trong tiếng súng nổ, là tiếng quát gọi hàng của bộ đội Lào. Trần Đế, Quyết
đoàn phó Quyết đoàn Cải Cách dẫn 4 Dân đoàn viên, vừa bắn loạn xạ, vừa lùi
xuống khe suối cạn nơi Hoàng Cơ Minh đang nằm lăn lộn. Chưa kịp đặt chân xuống
lòng suối lổn nhổn đá củ đậu, Dân đoàn viên Nguyễn Văn Sĩ ngã bổ ngửa ra, máu
từ ngực phun thành vòi, còn dân đoàn viên Ngô Tấn Nghiêm, chân phải đứt
tới háng, chỉ còn dính lại bằng mẩu da lủng lẳng. Cạnh đó, “Ủy viên trung ương
mặt trận” Trần Khánh nằm chết.
Khoảng 40 phút sau, tiếng súng im hẳn. Phía kháng chiến chết 6, bị
thương 3, còn vài người thì bỏ trốn hoặc chạy lạc. Thuốc men hầu như
chẳng có gì nên cánh tay Hoàng Cơ Minh chỉ được băng bó bằng một miếng giẻ, xé
ra từ chiếc khăn rằn quấn cổ. Kiểm điểm lại, toán kháng chiến chỉ còn 20 chiến
binh trong đó 4 người không vũ khí vì đã vứt bỏ khi tháo chạy.
Đạn dược cũng thế, mỗi người chỉ còn chừng 3 băng với vài quả lựu
đạn. Bên bờ suối, tiếng rên của Ngô Tấn Nghiêm lúc nghe như con heo bị thọc tiết, lúc chỉ ư ử
trong cuống họng nhưng chẳng ai còn đủ tinh thần để kết thúc nỗi đau đớn
cho mau.
Cái chết của Trần Khánh khiến Hoàng Cơ Minh mất tinh thần. Đây là lần đầu
tiên, anh em kháng chiến nhìn thấy Hoàng Cơ Minh mặt tái mét,
tay run rẩy, mắt mở trừng trừng nhìn xác Trần Khánh. Là nhân vật thứ hai – chỉ
đứng sau Hoàng Cơ Minh trong “chiến dịch Đông tiến”, phụ trách tâm lý chiến,
Trần Khánh còn có bí danh là Trần Thiện Khải, một thời gian dài chỉ huy và điều
hành đài phát thanh “kháng chiến” đặt trên đất U Bon, Thái Lan.
Tự nhận là mình có họ hàng với nhạc sĩ Trần Thiện Thanh, tức ca sĩ Nhật Trường,
Khánh đã sáng tác một số bài hát nhằm lên dây cót tinh thần đồng bọn.
Những người bị bắt sau này cho biết, Trần Khánh có tác phong quân
phiệt, thường xuyên la hét, đánh chửi “chiến hữu”. Trong suốt thời gian thực
hiện “chiến dịch Đông tiến 2” cho đến khi chết, Khánh đã trực tiếp hạ lệnh cho
các dân đoàn, quyết đoàn giết chết ít nhất là 7 chiến hữu bị thương,
đồng thời bỏ rơi nhiều người khác khi thấy họ kiệt sức.
Trời bắt đầu đổ mưa, cơn mưa càng lúc càng nặng hạt. Lợi dụng thời tiết, Hoàng
Cơ Minh ra lệnh cho mọi người nhanh chóng rời con suối lúc này đã
ngập nước, bỏ mặc 3 chiến binh bị thương nằm lại với đất trời. Xẩm
tối, họ phát hiện ra một hang đá, mọi người chui vào ẩn
náu. Nếu không kể những kháng chiến quân từ Mỹ, Pháp, Nhật, Đức về,
thì hầu hết Dân đoàn viên đều là những tên vượt biên – trong đó không ít là các
sắc lính thờiVNCH, vào trại tị nạn Sikhiu ở Thái Lan, rồi được Hoàng Cơ
Minh tuyển mộ với lời hứa “sẽ cho đi định cư tại Mỹ” sau khi hoàn thành nhiệm
vụ.
Nhưng đến giờ phút này, chẳng còn ai nghĩ đến giấc mơ được tới
nước Mỹ, mà chỉ mong thoát khỏi vòng vây của bộ đội Lào. Trước lúc lên
đường, mọi người bóp nhỏ những gói mì, nhét xuống đáy ba lô. Thịt gà,
thịt heo, được xé nhỏ, rang thật mặn rồi ém chặt. Bây giờ vét kỹ, còn
được vài nắm nên quậy chung với nước mưa, nấu thành một thứ canh lõng
bõng, chia nhau húp.
Mưa suốt cả ngày hôm sau. Và có lẽ cơn mưa cũng gây khó khăn cho bộ đội Lào,
nên toán kháng chiến tạm thời yên ổn. Đói quá, một vài người liều
mạng bò ra ngoài, hái mấy mớ rau rừng về luộc. Tâm trạng tuyệt vọng
khiến mọi người hầu như chẳng còn suy nghĩ gì nữa. Đốt lửa sáng
rực, vừa để hong khô những bộ quần áo, vừa đỡ lạnh. Vết thương trên cánh tay
nhiễm trùng khiến Hoàng Cơ Minh lên cơn sốt. Ông nằm co quắp trong
một góc, chẳng “chiến hữu” nào còn để ý đến ông. Tất cả chỉ lo cho mạng
sống của mình. Có người thì thào với nhau, rằng nếu bộ đội Lào
đánh vào, họ sẽ đầu hàng hết.
Sáng 28/8, trời tạnh. Khoảng 9 giờ, Hoàng Cơ Minh ra lệnh lên đường. Trước lúc
di chuyển, ông nói với đám tàn quân, rằng ai có thể quay về đất Thái
thì cứ về. Chẳng phải ông tốt lành gì nhưng có lẽ vì nghĩ
đến phát súng “ân huệ” của đồng đội khi cánh tay y sưng to vì nhiễm trùng, đi
phải chống gậy. Nhưng về thế nào được nữa khi tấm bản đồ duy nhất, đã nằm cùng
với xác Trương Ngọc Ny.
Cả toán dò dẫm ra khỏi cửa hang. Sau cơn mưa, vắt xuất hiện nhiều
vươn mình bám chặt vào những ống chân khẳng khiu, ghẻ lở, nhưng chẳng ai nào
còn tinh thần đâu mà gỡ. Võ Hoàng, “Tổng thư ký hội văn nghệ sĩ mặt trận” kéo
“Dân đoàn trưởng” Võ Văn Tuấn lùi lại phía sau, vừa bước vừa hỏi nhỏ “Nếu quay
lại Thái Lan thì đi đường nào, mất bao nhiêu ngày?”.
Tuấn dáo dác nhìn quanh như sợ có người nghe thấy, rồi vẫy “Dân đoàn viên”
Nguyễn Linh lên: “Hồi trước nghe nói mày có đi khai thác gỗ ở Lào phải không?”.
Linh gật đầu: “Dạ. Em đi tuốt tới gần biên giới Thái Lan, rồi em chạy qua đó
xin... tị nạn luôn” – “Vậy mày còn nhớ đường không?”
“Nếu đi đường từ Quảng Trị lên thì em nhớ, chứ
đường này lạ quá. Thái Lan nằm ở phía Tây, là sau lưng mình...”. Võ Văn Tuấn gừ
gừ trong cuống họng: “Thôi, nghe thì biết vậy thôi. Hó hé ra là mày chết trước.
Từ bây giờ, mày đi sát với tao”.
9 giờ 30 sáng, trời không có nắng nên quang cảnh vẫn âm u. Toán quân
nặng nề lê bước nhưng không phải là tản ra theo đội hình vừa đi, vừa sẵn sàng
nổ súng như những ngày đầu, mà co cụm lại với nhau. Qua một trảng cỏ tranh
trống trải, chúng cũng chẳng buồn ngụy trang vì đối với nhiều người trong toán,
cái chết lúc này chính là sự giải thoát, còn bị bắt thì coi như được sinh ra
lần thứ hai.
Mặc dù Hoàng Cơ Minh đã tuyên bố cho phép toán kháng chiến được trở
lại đất Thái, nhưng chẳng ai nào dám công khai quay lưng bởi lẽ đường
sá không rành, lương thực không có, lại thêm bộ đội Lào lúc ẩn lúc hiện nên
chẳng còn cách nào khác hơn là bám theo bầy đàn. Sau này, trong trại giam, “Dân
đoàn viên” Nguyễn Văn Đức kể lại: “Kể cả Hoàng Cơ Minh, chẳng ai còn tinh thần
và cũng chẳng ai có một tí hy vọng gì về cuộc “Đông tiến”.
Trước lúc lên đường, ông
Minh nhiều lần thao thao bất tuyệt về các “khu chiến quốc nội”, về các “đường
dây xâm nhập”, về các “trạm dưỡng quân” đã được thiết lập từ nhiều năm trước.
Thực tế cho thấy Hoàng Cơ Minh chỉ giỏi nói dóc, đánh lừa...”.
Đi được chừng 1km, lúc cả toán đang dò dẫm bước xuống những tảng đá
trơn trợt, thì súng lại nổ. Võ Hoàng – “Tổng thư ký hội văn nghệ sĩ Mặt trận”
bị một trái M79 vào đầu. Nguyễn Văn Đẩu, là khỏe nhất, đeo
balo đựng quần áo, tài liệu của Hoàng Cơ Minh lĩnh nguyên một loạt AK vào bụng.
Quyết đoàn phó Trần Đế vừa giương súng bắn bừa, vừa kéo Hoàng Cơ Minh, xuống
con suối cạn, là điểm tiếp giáp giữa hai ngọn núi. Dân đoàn trưởng Đinh Văn Bé,
có nhiệm vụ bảo vệ Hoàng Cơ Minh và Nguyễn Tấn Phát, “Dân đoàn viên” nhỏ tuổi
nhất, mới có 16 tuổi cũng vội vã lao theo.
Bộ đội Lào tràn xuống tiếp tục bắn Dân đoàn phó Nguyễn Vĩnh Lộc trúng đạn, Dân
đoàn trưởng Võ Văn Tuấn ngã gục như thân chuối bị phạt ngang. Biết là chẳng còn
làm gì được nữa, Hoàng Cơ Minh rút khẩu súng ngắn Browning đeo bên mình, kê lên
thái dương bóp cò tự sát. “Ủy viên trung ương” Nguyễn Huy cũng tự sát. Riêng
Lưu Minh Hưng, “Ủy viên Mặt trận” khi vừa buông chốt quả lựu đạn ra, định ném
thì bất ngờ lựu đạn nổ. Cả nửa thân trên của Hưng chỉ còn là nhúm thịt bầy
nhầy...
* * *
Viết lại theo Báo Nhân Dân TP HCM.
Sáng ngày 1/12/1987,
Tòa án nhân dân TP HCM đã mở phiên xét xử những tên phản động trong nhóm Hoàng
Cơ Minh do Chính phủ nhân dân Cách mạng Lào chuyển giao vì mục tiêu của chúng
là xâm nhập, bạo loạn lật đổ Nhà nước Việt Nam. Chúng đã lĩnh án từ 3 năm tù
đến chung thân. Tổng cộng trong số 130 tên xâm nhập, có 83 tên chết. 19 tên bị
bắt, số còn lại bỏ trốn khi đang trên đường xâm nhập.
Năm 1990, khi tình
hình Liên Xô và các nước Đông Âu có nhiều biến động, hí hửng tưởng rằng thời cơ
đã tới, “Quyết đoàn trưởng mặt trận Hoàng Cơ Minh” là Đào Bá Kế, nguyên sĩ quan
Binh chủng Nhảy Dù, quân đội Sài Gòn, đã dẫn 30 tên mở cuộc “Đông tiến 3”.
Nhưng cũng như nhóm phản động do Hoàng Cơ Minh cầm đầu, “chiến dịch Đông tiến
3” bị đánh tan tác. Nhiều tên chết, nhiều tên bị bắt trong đó, Đào Bá Kế lĩnh
án tù chung thân.
Tân Dân