Search This Blog

Friday, October 24, 2025

ĐỜI PHI CÔNG CỦA BẰNG PHONG ĐẶNG VĂN ÂU - TẬP II

 

ĐỜI PHI CÔNG CỦA BẰNG PHONG ĐẶNG VĂN ÂU

(TẬP SỐ 2)

 Yên Sơn Trương Nguyên Thuận thân mến,

Sáng nay thức dậy, mở computer, thấy có bài “Giấc Mơ Phi Công và Những Chặng Đường Nghiệt Ngã”, thấy tên tác giả là Yên Sơn – người anh em cùng Phi đoàn của mình – anh phải bày tỏ đôi lời về cái nghiệp bay của mình:

https://mail.google.com/mail/u/0/?ogbl#inbox/FMfcgzQcqRBbMJTGjmWZqNlSpXQrKQKk),

Thuận là người anh em mà anh rất quý, vì tính tình hòa nhã và tâm hồn trong sáng. Thuận có giấc mơ làm phi công. Còn anh chẳng mơ làm phi công, mà trở thành phi công là do một sự tình cờ. Mẹ anh đã chuẩn bị cho anh theo học Y khoa để tiếp nối sự nghiệp “cứu nhân độ thế” (!) của bố anh và ông anh Cả của anh. Thời bấy giờ trường Y Khoa, sinh viên còn học tiếng Pháp. Ở bậc Trung Học, ngoài việc chọn Pháp văn làm sinh ngữ chính, Mẹ anh còn cho tiền đi học thêm Pháp văn với thầy Trần văn Thông, gần nhà thờ Phủ Cam. Nếu ai từng học Pháp văn của thấy Trần văn Thông, sẽ biết anh ngay. Bởi vì anh học thêm Pháp văn với thầy Nguyễn văn Thông liên tục từ năm Đệ Tam đến năm Đệ Nhất. Ngoài ra, Mẹ anh còn dành thời giờ đàm thoại với anh bằng tiếng Pháp để có thể nói chuyện với người Pháp được.

Sau khi đỗ bằng Tú Tài II, rời trường Quốc Học Huế, vào Saigon để học Đại Học. Thú thật, anh không thích học Y Khoa chút nào, vì anh là đứa lười học, mà phải tụng bài là không hợp. Cho nên anh ghi danh vừa Lý Hóa Sinh (PCB), vừa Toán học Đại cương (Math G.). Nhờ học Toán học Đại cương, anh mới biết thầy Monavon. Một hôm viết Email kể chuyện thời học Math G. với người bạn cùng khóa – Trung tá Nguyễn Quan Vĩnh, hiện ở San Jose – kể lại kỷ niệm xưa, liền bị ông Đại tá Bác sĩ Hoàng Cơ Lân ở bên Pháp mắng trên diễn đàn: “Thằng Âu là thằng nói phét! Đại học Khoa học Saigon làm gì có môn học Math G.?” Anh im lặng, không giải thích! Hãy dành cho người nào từng học Math G. lên tiếng. Bởi vì đối với một người phát ngôn như thế này: “Donald Trump là một thằng điên! Người Việt Nam nào bầu cho thằng ấy là BỰA”, thì mình còn có gì để giải thích, hả Thuận? Một hôm đang làm thực tập trong phòng thí nghiệm, người bạn đến vỗ vai anh và nói: “Âu, mày có xe hơi, chở tao vào căn cứ Tân Sơn Nhất để xin cái đơn gia nhập Không Quân”. Thời bấy giờ, tuy là sinh viên chưa làm ra được đồng nào, nhưng có người anh cho mình chiếc xe hơi Citroën 2CV(2 mã lực), thì cứ thế mà lái đi học thôi. Đâu có gì là hách? Thấy bạn mình xin đơn, anh cũng xin đơn và điền đơn để xem mình có được chọn làm phi công hay không? Nếu được chọn, mình sẽ tính sau. Đọc cuốn Đời Phi Công, nhà văn Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh thuật về một buổi tiếp tân ở Sài Gòn, ai nấy đều giới thiệu với gia chủ: Tôi là Bác sĩ A, tôi là Dược sĩ B, tôi là Kỹ sư C, tôi là Kiến trúc sư D. Đến lượt mình, nhà văn Toàn Phong tự giới thiệu: “Tôi là người phi công của đất nước!”. Nếu nhà văn Toàn Phong tự giới thiệu tôi là phi công, thì chẳng có gì đáng nói. Đằng này, Người giới thiệu, “Tôi là người Phi công của Đất Nước”, tức là Người đã tự biểu tỏ về niềm tự hào của một chàng trai nuôi hoài bão rất lớn. Hơn nữa, ở trang nói về cuộc đời bay lượn của mình, nhà văn viết đại ý như sau: “Nghề phi công không phải chỉ là một kỹ thuật, mà là cả một nghệ thuật sống, một triết lý về đời người. Nó là một ngành học uyên bác, một cuộc sống hải hồ, và một kiếp sống ngang dọc giữa trời mây.” Theo quan niệm chung chung của người Việt Nam, họ thường cho rằng bọn lính tráng là loại vũ biền, là ít học, là loại lính tẩy, khố Xanh, khố Đỏ. Nhưng nhà văn Toàn Phong đã xóa cái mặc cảm lính tráng, nếu được Không Quân tuyển lựa, anh đợi gì mà không gia nhập?

Vào trường huấn luyện Quân Sự Nha Trang tháng Tư năm 1962, ba tháng sau, anh được chọn đi học Mỹ trước những người của khóa đàn anh, vì vượt qua kỳ thi trắc nghiệm Anh văn ngay. Sau khi vượt qua kỳ thi Anh ngữ tại trường Lackland AFB ở Texas, bọn anh được gửi đi học bay tại Moody AFB thuộc Tiểu bang Georgia. Thuận còn được huấn luyện trên phi cơ Cessna rồi mới học bay trên T-28; còn bọn anh học bay ngay trên T-28 ngay. Cho nên, có nhiều người trong khóa bị loại vì bắt đầu trên một chiếc tàu bay khá lớn.

Về nước, Bộ Tư Lệnh KQ quyết định người nào bay Khu Trục, người nào bay Vận Tải, chẳng dựa theo tiêu chuẩn nào cả. Anh và một số anh em được chỉ định đến phục vụ Liên Phi Đoàn Vận Tải dưới sự chỉ huy của Trung tá Nguyễn Cao Kỳ. Sở dĩ gọi là Liên Phi Đoàn là vì ngành Vận Tải có Phi Đoàn 413 và Phi Đoàn 415. Hầu hết những phi công của Vận Tải xuất thân từ trường Marrakech của Pháp, còn phi công ở Mỹ chỉ có những vị như: Nguyễn Quế Sơn, Đặng Xuân Hoàng, Đặng văn Đức, Cung Thăng An … Người nào được xuyên huấn bởi ông thầy từ Mỹ về, người đó coi như may mắn, vì cùng “văn hóa Mỹ”. Còn người nào bị xuyên huấn bởi ông thầy từ Pháp về, thì coi như không may, vì “văn hóa Pháp” và “văn hóa Mỹ” rất khác nhau, mặc dầu cả hai đều là phi công cả! “Văn hóa Pháp” có tính cách Thực dân, coi thường học trò của mình!

Anh xin kể Thuận nghe một chuyện: “Anh được ông Đại Úy T. chấm thi ra Trưởng Phi Cơ. Ông ấy là một người rất tốt, nhưng có bộ điệu hách, hách giống Tây. Sau khi hoàn tất cuộc thi, xuống đất ông nói: “Anh Âu bay cũng được, nhưng môn bay “formation” (bay hợp đoàn), tại sao anh không bay sát chiếc “lead”, mà cứ bay tục tục ra đằng sau?” Thú thật, anh không hiểu bay “tục, tục” là nghĩa ra sao, nên hỏi. Thì ra, ông bảo bay “tục, tục” là tụt ra đằng sau chiếc phi cơ “lead”. À té ra người Nam phát âm chữ tụt là “tục”! Đại  Úy nói tiếp: “Nếu ngày xưa bọn tôi bay với Tây, mà bay như anh, thì anh có biết ông thầy Tây làm gì không?”. Anh trả lời: “Thời Tây, bọn tôi đâu đã vào Không Quân mà biết?” Ông Thầy giải thích: “Nếu tôi mà bay như anh, ông thầy bắt chổng mông lên và đá vào đít!”. Nếu là người khôn ngoan, ông Thầy nói gì, thì cứ im lặng đi cho qua ải. Đằng này, anh là thằng ngu, nên đáp: “Hồi đó, Đại Úy là Hạ Sĩ quan, bọn Tây coi dân Việt Nam không ra gì! Còn chúng tôi là sĩ quan, nếu bị đá đít, thì chúng tôi đá lại, chứ sợ gì?” Mặc dầu gặp phải thằng thí sinh ngang ngạnh, nhưng Đại Úy T. vẫn chấm cho anh đậu bằng Trưởng Phi cơ. (tiếng Pháp gọi là Commandant de bord, và tiếng Anh gọi là Captain).

Những anh em phi công thời của Thuận về Phi đoàn, những ông thầy xuất thân ở Pháp đều về Bộ Tư Lệnh, cho nên Thuận không bị những ông xuất thân trường bay ở Pháp đối xử với bọn anh. Hình như huyền thoại “Mẹ Trăm Con” (50 đứa xuống biển, 50 đứa lên núi) đã ứng vào vận mệnh dân tộc ta hay sao ấy? Dù là cùng nghề phi công, cùng tan xác như nhau, nhưng rất coi thường nhau. Phi công tốt nghiệp trường Salon de Provence ở Pháp, coi thường phi công tốt nghiệp trường Marrakech ở Bắc Phi. Mặc dầu học ở Salon chỉ học địa huấn (ground school), nhưng đều phải sang Marrakech học bay như nhau. Nhưng vì học Salon thì phải có bằng Tú Tài II và học tại Marrakech vừa học địa huấn, vừa học phi huấn. (dành cho sinh viên có bằng Tú Tài I trở xuống).

Khi về nước, Trung Úy Huỳnh Hữu Hiền được chỉ định làm Chỉ Huy trưởng Phi Đoàn I Khu Trục; Trung Úy Nguyễn Ngọc Loan được chỉ định làm Chỉ Huy trưởng Phi Đoàn I Quan sát; Trung Úy Nguyễn Cao Kỳ làm Chỉ Huy trưởng Liên Phi Đoàn 43 Vận Tải, vì dưới  Liên Phi Đoàn có hai Phi Đoàn Vận Tải. Trong khi đó phi công Nguyễn Xuân Vinh được chỉ định ra Nha Trang làm huấn luyện viên phi cơ hạng nhẹ (gọi là Morane 500). Sở dĩ, phi công Nguyễn Xuân Vinh không được chỉ định làm Phi Đoàn trưởng, là vì khi ra trường Thủ Đức (Khóa I), ông chỉ được mang cấp bậc Chuẩn Úy, trong khi đó hầu hết sinh viên Thủ Đức ra trường đều mang cấp bậc Thiếu Úy.

Phi công Nguyễn Xuân Vinh huấn luyện học trò trên phi cơ Morane 500 (loại phi cơ nhẹ hơn cả phi cơ L-19), nhưng ông đã làm hư hại 2 chiếc, vì không đỡ được sự lầm lỗi của học trò. Bình thường phi công huấn luyện viên dạy học trò mà để cho học trò gây tai nạn, huấn luyện viên sẽ bị “cúp” bằng và còn bị kỷ luật. Chỉ Huy trưởng Căn Cứ Huấn Luyện Nha Trang lúc bấy giờ là Thiếu tá Nguyễn Ngọc Oánh đã chuyển phi công Nguyễn Xuân Vinh sang dạy địa huấn, tức là dạy kỹ thuật phi hành ở dưới đất, mà người Pháp gọi là Cours au sol = ground school). Phi công Nguyễn Xuân Vinh chưa bao giờ được “checked out” xác định Hành quân, tức là Người Phi công của Đất Nước chưa hề bay một phi vụ hành quân nào. Nhưng ông được lên làm Quyền Tư Lệnh Không Quân là bởi vì Thiếu tá Đỗ Mậu – Quân Ủy trưởng đảng Cần Lao, kiêm Quân Trấn trưởng thị xã Nha Trang – tiến cử ông lên Tổng thống Ngô Đình Diệm. Bình thường trong Không Quân, người được bổ nhiệm làm Chỉ Huy trưởng Phi Đoàn phải là người bay giỏi, thì nhân viên dưới quyền mới phục. Vì chưa từng được xác định Hành quân, mà đứng ở địa vị Tư Lệnh, nên phi công Nguyễn Xuân Vinh mang mặc cảm, ứng xử với cấp thuộc cấp không ra dáng một “Leader”.

Yên Sơn Trương Nguyên Thuận thân mến,

Anh không hề cố ý vạch áo cho người xem lưng. Nhưng chỉ muốn nói lên sự “nghiệt ngã” của người phi công mang tiếng hào hoa, phong nhã mà người đời gắn cho danh hiệu ấy. Chẳng phải tự phụ, anh mới đúng là “Người Phi Công Của Đất Nước”, vì sau năm 1975 chẳng anh nào còn tàu bay để bay, nhưng anh vẫn loay hoay tận lực với nghĩa vụ của người lính do câu nói câu nói bất hủ “I shall return” của Đại tướng Douglas MacArthur khi rời đảo Lữ Tống ở Phi Luật Tân. Trưa ngày 29 tháng Tư năm 1975, Việt Cộng đã tấn công vào vòng đai phòng thủ căn cứ. Mọi người đều mạnh ai nấy chạy, tìm đường thoát thân. Lúc bấy giờ anh chạy ra bãi đậu phi cơ để xem chiếc C-130 nào còn khả dụng thì bay. Nhờ có anh kỹ thuật giúp, gắn GTC (chữ tắt của Gas Turbine Compressor) thì mới quay máy được. Nếu không có GTC, chiếc C-130 trở thành đống sắt vụn. Hành khách ùa lên máy bay, phi công ngồi ở phòng lái đâu biết ai với ai. Đến khi máy bay chật ních, không còn ai có thể leo lên nữa, áp tải mới đóng cửa phi cơ và anh từ từ lăn bánh.

Trước đó chừng 4 giờ, có một chiếc AC-119 bị SA-7 bắn hạ ngay trên vòng đai phi trường, nên sau khi phi cơ rời phi đạo, anh lấy cao độ theo vòng xoắn trôn ốc trên thành phố Saigon để tránh SA-7 bắn hạ. Vừa cầm cần lái, nước mắt vừa ràn rụa, vì biết từ nay mình mất quê hương, mất vợ con, mất mẹ già. Tự nhiên từ tiềm thức, câu nói “I shall return” của Đại tướng Douglas MacArthur vọng vào trong tai. Cho nên, lúc mất nước, anh chỉ mới 35 tuổi, trí tuệ còn minh mẫn. Nếu anh vâng lời bà chị anh – em ruột Hùm Xám Đặng văn Việt – về nhà chị để chị nuôi cho ăn học, thì đâu khó gì để lấy cái bằng Tiến sĩ? Không! Mình phải tự túc nuôi thân, kiếm tiền gửi về cho vợ con, chứ không thể để cho bà chị nuôi, thì lấy đâu ra tiền để gửi cho vợ con và mẹ già? Lúc bấy giờ Mỹ và Việt Nam chưa giao thương, nhưng anh có thể gửi tiền về Việt Nam qua ngả Canada. Vả lại tâm trí như người mất hồn, anh đâu có thiết tha gì với bằng cấp?

Năm 1977, anh mời được một số nhân vật để thành lập một tổ chức đấu tranh Nhân Quyền cho Việt Nam, như: Thượng Tọa Giác Đức, Linh mục Trần Duy Nhất là hai vị lãnh đạo tinh thần. Về phía dân sự gồm có: Cụ Hà Thúc Ký, lãnh tụ Đại Việt Cách Mạng, Thượng Nghị sĩ Đoàn văn Cầu, Bộ trưởng Tài chánh Châu Kim Nhân, Cụ Đổng lý Văn Phòng Chử Ngọc Liễn – thân sinh của phi công Chử Quân Anh trong Phi đoàn mình – Cụ Bà Đức Thụ, đồng chí của bà Cả Tề thuộc Quốc Dân Đảng, bà Lê Thị Anh thuộc Phật giáo Hòa Hảo, Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, Dân biểu Nguyễn văn Kim, Luật sư Lê Chí Thảo (hiện sống ở Virginia), Luật sư Đỗ Đức Hậu (hiện sống ở Orange County), sinh viên tranh đấu Ngô Vương Toại … Về phía Quân sự gồm có: Trung tướng Phạm Quốc Thuần, Trung tướng Nguyễn Bảo Trị, Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh, Đại tá Tỉnh trưởng Tuyên Đức Nguyễn Hợp Đoàn, Trung tá Thủy Quân Lục Chiến Nguyễn văn Phán và phi công Đặng văn Âu. Sở dĩ anh mời được những nhân vật tên tuổi, vì trước năm 1975, anh đã có sự quen biết với họ, ngoại trừ Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh.

Mở đầu buổi họp, anh giới thiệu danh tánh từng nhân vật. Tiếp theo, anh trình bày với tất cả quan khách về lý do tại sao chúng ta cần thành lập Tổ chức Đấu Tranh Nhân Quyền Cho Việt Nam. Bởi vì, dù sống lưu vong, nhưng chúng ta vẫn còn có nghĩa vụ đối với đồng bào khốn khổ tại quê nhà. Hơn nữa Tổng thống Jimmy Carter đang giương cao ngọn cờ Nhân Quyền là rất thích hợp cho phong trào của chúng ta. Anh đề nghi Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích làm Chủ tịch Phong trào, vì anh Bích có mối giao thiệp rộng rãi với báo chí Hoa Kỳ. Anh không giữ một chức vụ nào cả, để tránh tiếng mình mời người đến thành lập tổ chức là có ý đồ.

Anh đã tổ chức 3 cuộc biểu tình trước Tòa Bạch Cung, dâng thỉnh nguyện thư đến Tổng Thống và 3 cuộc biểu tình trước Liên Hiệp Quốc tại New York, dâng thỉnh nguyện thư cho Tổng Thư Ký. Hướng dẫn đoàn xe 25 chiếc từ Washington DC tới New York, nếu chưa từng là phi công, không phải là điều dễ dàng.

Trong một buổi họp anh em cựu Quân Nhân với ý định thành lập hội, anh phát biểu: “Chúng ta đã mất nước, đành mất cấp bậc, mất vợ con, mất tài sản của một đời tạo dựng. Nhưng có một thứ mà chúng ta không thể mất! Các anh có biết thứ gì không?” Chưa cần đợi ai đáp, anh trả lời: “Đó là danh dự của người Lính Việt Nam Cộng Hòa, giống như câu nói của Đại tướng Douglas MacArthur: 'Người Lính già không chết'. Chẳng có ai không chết, tại sao Người Lính Già không chết? Tại vì người lính trước gục ngã, thì người lính sau đứng lên! Muốn cho Người Lính sau đứng lên, thì người Lính trước phải tỏ ra xứng đáng với tinh thần “Tổ Quốc - Danh Dự - Trách Nhiệm”. Phó Đề đốc vỗ tay hoang nghênh lớn hơn ai hết!

Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh nhận thấy sự hăng say nhiệt thành và khả năng trình bày vấn đề trước mọi người một cách trôi chảy của anh, thì rất lấy làm tâm đắc. Ông Chuẩn tướng Hải Quân từng ôm vai anh, thân mật nói: “Ta tưởng cậu chỉ biết lái máy bay thôi. Không ngờ cậu có sự hiểu biết về Cộng sản thật sâu sắc!” Trong câu khen tặng đó, anh nhận thấy trong thâm tâm ông Tướng đã sẵn có định kiến: “Bọn phi công chỉ biết lái máy bay, đi cua đào và đêm đêm phòng trà, chứ chẳng biết gì hơn”. Anh chỉ cười, nhưng thầm nghĩ chưa chắc ông Tướng đã hiểu Cộng sản bằng tôi, vì tôi đã từng đọc sách Cộng sản như “Thời Dựng Đảng” của Trường Chinh Đặng Xuân Khu hay “Những Chặng Đường Lịch Sử” của Võ Nguyên Giáp. Anh tin rằng chưa chắc nhiều người Chống Cộng ở Hải Ngoại đã hiểu Cộng sản bằng anh!

Một hôm, ông Tướng Hải Quân nói: “Có lẽ mình phải làm một cái gì khác hơn, là biểu tình đòi Nhân Quyền, mà chẳng được ai chú ý”. Anh hỏi: “Anh định làm cái gì, hả anh Minh?” Tướng Minh đáp: “Mình tìm cách bí mật về trong nước, xây dựng hạ tầng cơ sở để chuẩn bị lật đổ bạo quyền”. Anh giải thích: “Ngày xưa ông Cố vấn Ngô Đình Nhu thả dù biệt kích xuống Miền Bắc là sai lầm. Thời Đệ nhị Thế chiến, Đồng Minh thả biệt kích sau lưng phòng tuyến địch được, là vì khi biệt kích xuống đất, thì có người chống Quân Đức nuôi ăn và che giấu. Còn Việt Cộng ở Miền Bắc tổ chức xã hội thành mạng lưới Công An Nhân Dân. Bất cứ người lạ mặt nào xuất hiện là phải báo cáo ngay. Nếu không báo cáo, mà bị phát giác, toàn thể gia đình đều bị trừng trị. Ngay như muốn làm thịt con gà để ăn, cũng phải đào lỗ chôn lông con gà và dặn con không được tiết lộ với ai. Vả lại, người dân không đủ ăn, thì lấy đâu ra thực phẩm để nuôi biệt kích? Thành thử Phi đoàn Thần Phong của ông Kỳ thả dù biệt kích đều bị Việt Cộng tóm gọn là vậy”.

Tướng Minh phản kháng: “Chẳng lẽ mình đành chết già trên xứ sở này hay sao? Chúng ta có khóc thì Mẹ mới cho bú” Anh đáp: “Cái câu con có khóc thì Mẹ mới cho bú, chỉ áp dụng khi nào có bà Mẹ thương con cơ! Còn bà Mẹ Hoa Kỳ đã ném thằng con vào thùng rác, đi với trai, thì thằng con có khóc lòi họng, Mẹ vẫn tỉnh bơ!” Tướng Minh vẫn chưa hài lòng: “Anh không thấy người xưa dạy: ‘Không bột mà gột nên hồ, tay không gây dựng cơ đồ mới ngoan’? Anh Âu không thấy Hồ Chí Minh từ hai bàn tay trắng mà đánh thắng Thực dân Pháp, Đế quốc Mỹ à?” Nghe ông Tướng nuôi ảo vọng, anh vô cùng chán nản, đáp: “Không phải lời dạy nào của cổ nhân đều đúng trong mọi hoàn cảnh. Hồ Chí Minh không phải từ tay trắng mà đánh thắng Pháp, thắng Mỹ. Sau lưng Hồ Chí Minh là khối Cộng sản Liên Xô và Trung Cộng, anh Minh à

Tướng Minh bực bội vì những gì ông nêu lên, đều bị anh bác bỏ, ông đứng lên nói: “Anh Âu chỉ giỏi lý thuyết, nhưng không dám hành động! Tôi là người hành động, nên giá nào tôi cũng sẽ chấp nhận trả!” Anh liền phản pháo: “Anh là lính tác chiến, tôi cũng là lính tác chiến. Anh phát biểu câu nói ấy, tức là anh khinh tôi hèn, chỉ biết đánh võ mồm thôi! Nếu anh Minh không nghe lời khuyên của tôi, cứ nhất định duy ý chí, anh sẽ trở thành thảo khấu”. Tướng Minh giận dỗi rời nhà anh giữa đêm trời tuyết phủ. Đứng nơi cửa sổ, nhìn anh Minh ra về, anh cảm thấy thương xót cho một người chiến sĩ nặng lòng với Quê Mẹ, nhưng không biết liệu sức mình.

Do sự đưa đường chỉ lối của “học giả” Đỗ Thông Minh – thủ lãnh đám Thanh Niên Người Việt Tự Do du học tại Nhật – chiến hữu Hoàng Cơ Minh trở thành Chủ tịch Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam, kết hợp với tổ chức Phục Hưng của Trung tá Hải Quân Trần văn Sơn và Thanh Niên Người Việt Tự Do. Trung tá Trần văn Sơn là người rất thân cận với Trí Quang. Khi thấy Chủ tịch Mặt Trận HCM mặc quần áo bà ba đen, quấn khăn rằn, đi dép râu và để râu giống Hồ Chí Minh, thì anh chợt nhớ lại ông đã từng khen Hồ Chí Minh đã đánh bại Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ. Anh không thể nào hiểu nổi tại sao đồng bào ta vẫn ủng hộ một người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa coi Hồ Chí Minh là thần tượng. Yên Sơn Trương Nguyên Thuận có hiểu nổi không?

Vừa rồi có một anh Đại Úy tị nạn Cộng sản năm 1975, lấy được cái bằng kỹ sư nguyên tử lực (theo lời khai của ảnh) đã miệt thị anh Âu một câu như sau: “Bằng Phong Đặng văn Âu không đáng một xu!” Anh không trả lời, vì thấy câu miệt thị quá ngu. Bởi vì Bằng Phong có treo biển bán mình đâu, mà anh ta đánh giá một xu, với hai, ba xu? Vả lại, Bằng Phong đâu có sống bằng nghề viết lách để mưu sinh đâu mà sợ xuống giá? Về sau, nếu ai muốn chửi Bằng Phong, hãy đến nhà Bằng Phong dạy cho cách mà chửi cho đúng! Đừng tưởng có mảnh bằng Kỹ sư Nguyên tử lực, muốn chửi ai thì chửi.

Phi công Yên Sơn Trương Nguyên Thuận thương mến,

Thỉnh thoảng anh gửi cho em một bài thơ ngẫu hứng. Em đã khen anh: “Không ngờ anh Âu viết bài tham luận đã hay, mà làm thơ cũng rất có hồn”. Anh cũng gửi bài thơ anh làm cho thi sĩ Ngô Minh Hằng đọc chơi, thì chị Ngô Minh Hằng cũng nhìn nhận thơ của Bằng Phong rất có hồn. Anh chỉ làm thơ lúc cảm thấy hứng thú và chỉ gửi cho bạn bè đọc mà thôi! Bởi vì làm thơ giống như thơ của cái ông Đại Úy xỉ vả anh không đáng một xu, mà anh cho là loại thơ ba xu, nhất định sẽ không làm! Anh Âu sẽ tiếp tục làm Youtube về Đời Phi Công để nhắn với đồng bào điều này: “Nếu tình trạng xuống cấp về mọi mặt giữa Quốc – Cộng kiểu này kéo dài, nòi giống Việt Nam sẽ không còn trên hành tinh này, ngoại trừ có phép lạ từ Thượng Đế”. Một khi anh Âu nói điều gì, anh đều có lý lẽ để giải thích, chứ không nói bừa.

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn làm bài nhạc “Gia Tài Của Mẹ” có câu “Gia tài của Mẹ để lại cho con một bọn lai căng và một lũ bội tình” là đúng lắm. Ngoài Bắc, bọn Cộng sản tôn thờ một chủ nghĩa ngoại lai phi nhân, ở Miền Nam thì bội bạc. Bọn Tướng lãnh được ông Ngô Đình Diệm nâng niu đã giết cả gia đình họ Ngô không một chút nương tay. Nếu anh em ông Ngô Đình Diệm thực sự có tội đàn áp Phật giáo như Trí Quang cáo buộc, tại sao mấy ông Tướng không đưa anh em ông Diệm ra tòa, xét xử như một Quốc gia có luật pháp văn minh? Tại sao xuống tay giết anh em ông Diệm một cách mờ ám để đến nay không biết ai thực sự là thủ phạm?

Như một con chim báo bão, anh sẽ tiếp tục thực hiện Đời Phi Công, nếu thế hệ mai sau còn thương tưởng và tự hào về nòi giống thì ra tay cứu vớt. Còn bản thân anh Âu tài hèn, đức mỏng lại đã già thì chẳng làm được gì, chẳng bao giờ nuôi ảo tưởng đội đá vá trời. Gửi Thuận cái Youtube Đời Phi Công tập II để xem chơi cho vui:

https://www.youtube.com/watch?v=8Jp06m8np48

Thân ái,

Bằng Phong Đặng văn Âu, Ngày 23 tháng 10 năm 2025

10200 Bolsa Avenue, Westminster, CA. 92683 Telephone: 714 – 276 – 5600

 

 

 

 

No comments:

Post a Comment

Note: Only a member of this blog may post a comment.