Search This Blog

Monday, June 9, 2025

NGƯỜI QUÂN TỬ HỢP NHAU VÌ ĐẠI NGHĨA - BẰNG PHONG

 NGƯỜI QUÂN TỬ HỢP NHAU VÌ ĐẠI NGHĨA.

BẰNG PHONG ĐẶNG VĂN ÂU.

Nhân có sự kiện bất hòa giữa Tổng thống Donald Trump và tỷ phú Elon Musk, tôi mạn phép bàn chuyện thế sự một chút chơi.

Tỷ phú Elon Musk là một thiên tài hiếm có từ mấy ngàn năm lịch sử. Thiên tài về khoa học và thiên tài về sự làm giàu nhanh chóng mà không ai có thể phủ nhận. Cái việc Elon Musk bỏ đảng Dân Chủ, quay sang ủng hộ Tổng thống Donald Trump, tức là biết bỏ chỗ tối để bước sang chỗ sáng là điều đáng ca ngợi. Nhất là sau khi chứng kiến Tổng thống Donald Trump bị quân khủng bố bắn, Elon Musk đồng ý với lời tuyên bố của Tổng thống Donald Trump được Chúa bảo vệ để hoàn thành sứ mệnh cứu nguy nước Mỹ. Thông thường, những nhà khoa học lừng danh không tin vào sự mầu nhiệm của Thượng Đế. Elon Musk đã tự nhận bản thân thông minh là nhờ Chúa soi sáng. Tôi cũng tin ông Trời đã phái Elon Musk đến giúp Tổng thống Donald Trump để phơi bày những con quái vật dưới Đầm Lầy đang tàn phá nước Mỹ.

Tôi ngưỡng mộ tài năng của Elon Musk, nhưng cảm thấy Musk có cung cách trẻ con (childish) khi nhảy múa để biểu tỏ sự vui mừng một cách hồn nhiên trước mặt quần chúng. Tôi hy vọng Musk sẽ dần dần trưởng thành sau một thời gian làm việc với những chính trị gia trong Tòa Bạch Ốc.

Vừa rồi, Elon Musk kể lể: “Nếu không có sự ủng hộ của tôi (Musk), ông Donald Trump sẽ không đắc cử”. Tôi khá thất vọng trước câu nói của Musk. Tại sao? Tại vì Musk không thấy mình ủng hộ Tổng thống Donald Trump là bổn phận và nghĩa vụ của người yêu nước. Nếu Donald Trump thất cử, bộ máy Chính quyền mà nằm dưới sự “cai trị” của bà Kamala Harris, thì nước Mỹ sẽ sụp đổ, quốc gia Hoa Kỳ đâu có còn nữa để Elon Musk thi hành dự án lên Sao Hỏa? Tôi tin chắc rằng những người Việt Tị Nạn Cộng sản ủng hộ Tổng thống Donald Trump đều vô vị lợi, vì họ nhận thấy đảng Dân Chủ có hành vi phản quốc, bán nước. Từ năm 2020, tôi đã kết hợp với những anh chị em tại Orange, thành lập Phong trào Ủng hộ Tổng thống Donald Trump là vì bổn phận và nghĩa vụ của người tị nạn Cộng sản, chứ không phải vì danh hay vì lợi. Mỗi thành viên trong Phong trào đều tự nguyện đóng góp tài chánh để tổ chức những cuộc tuần hành bằng xe hơi quanh vùng Orange County, mà không một ai đòi hỏi sự đền đáp của Tổng thống Donald Trump.

Tổng thống Donald Trump đang đối phó với hai kẻ thù nguy hiểm: Đó là Trung Cộng và IRAN. Nhưng còn có một kẻ thủ nguy hiểm gấp bội. Đó là kẻ nội thù, đảng Dân Chủ. Tổng thống Donald Trump  lên làm Tổng thống vào thời điểm suy tàn do đảng Dân Chủ gây nên. Suy tàn về an ninh nội địa, suy tàn về kinh tế (nợ Quốc gia lên đến 37 ngàn tỉ), đặc biệt suy tàn về đạo đức vì chủ trương AntiChrist và đánh lừa nhân dân về ông Joe Biden bệnh hoạn với sự toa rập của truyền thông dối trá như Cộng sản. Tổng thống Donald Trump ra lệnh cơ quan An ninh trục xuất những phần tử tội phạm MS-13 trở về nguyên quán là việc làm chính đáng, nhưng Nghị sĩ, Dân biểu trong đảng Dân Chủ, Chánh Án do Barack Hussein Obama bổ nhiệm, phản đối kịch liệt, thì đủ cho ta thấy đảng Dân Chủ là kẻ nội thù của nước Mỹ. Nghị sĩ Chris Van Hollen của Maryland bay xuống El Salvador để bênh vực cho tên tội phạm Kilma Abrego Garcia bằng tiền thuế của dân Mỹ là một điều ngu xuẩn, càng chứng tỏ đảng Dân Chủ đứng về phía tội phạm.

Tổng thống Donald Trump là người yêu nước, đặt quyền lợi Quốc gia trên hết. Bằng cớ là Nghị sĩ JD Vance là người chủ trương “No Trump” nhưng Donald Trump vẫn chọn JD Vance làm Phó Tổng thống. Nghị sĩ Marco Rubio và Donald Trump chống nhau kịch liệt trong thời gian tranh chức ứng cử viên Tổng thống trong đảng Cộng Hòa năm 2016, nhưng Tổng thống Donald Trump vẫn mời Marco Rubio làm Bộ trưởng Ngoại giao. Nếu biết đặt sự sống còn của nước Mỹ lên trên, thì Elon Musk phải nói một lời xin lỗi vì sự nặng lời một cách quá đáng đối với Donald Trump.

Tôi mong mỏi những vị Bộ trưởng, Tướng lĩnh trong Nội Các, trong Quân Đội đoàn kết lẫn nhau để diệt cho kỳ được những kẻ phản bội đội lốt dân chủ đang manh tâm phá hoại nước Mỹ. Vì đó là những kẻ thù nguy hiểm nhất cho Quốc gia mà chế độ Cộng Hòa của Miền Nam Việt Nam đã sụp đổ do bọn phản quốc.

Bằng Phong Đặng văn Âu. Ngày 9 tháng 6 năm 2025. Tel: 714 – 276 – 5600

 

Friday, June 6, 2025

THƯ KHÔNG NIÊM KÍNH GỬI TƯỚNG HOA KỲ GỐC VIỆT

 Thư không niêm kính gửi

Quý vị Tướng lãnh Hoa Kỳ gốc Việt


Bằng Phong Đặng Văn Âu Ngày 02.03.2021

California, Ngày 2 tháng 3 năm 2021.

Kính thưa Quý vị Tướng Lãnh,

Nhân danh một cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hòa, tôi viết thư ngỏ này để kính nhờ quý vị chuyển đạt lên thượng cấp của quý vị.

Trước hết, tôi vô cùng ngưỡng mộ, kính phục quý vị đã chọn binh nghiệp để đền ơn nước Mỹ. Tôi đã lớn tuổi khi đến Mỹ, nên không thể gia nhập Quân đội. Nhưng tôi nghĩ rằng mình cũng phải có nhiệm vụ đem kinh nghiệm của mình về cộng sản để giúp các Tướng lãnh Hoa Kỳ có sự hiểu biết về những thủ đoạn khủng khiếp của cộng sản. Câu nói của cố Tổng thống John F. Kennedy: “Ask not what your country can do for you – ask what you can do for your country”, (Đừng hỏi tổ quốc có thể làm được gì cho bạn, hãy hỏi bạn có thể làm được gì cho tổ quốc) luôn luôn nhắc nhở tôi – dù Hoa Kỳ không phải là Quê Mẹ, là nơi chôn nhau cắt rốn của mình – nhưng tôi vẫn phải có bổn phận đền đáp công ơn của Mỹ.

Tôi tin rằng tất cả quý vị đều được cơ quan Tình báo Quân Đội (DIA) thuyết trình cho biết cuộc tổng tuyển cử ngày 3 tháng 11 năm 2020 là một tai họa cho nước Mỹ, bởi vì sự can thiệp của Trung Cộng. Sự kiện gian lận về những lá phiếu từ người chết, người bất hợp pháp, máy “dominion” đã bị khám phá, nhưng truyền thông, Quốc hội, Tối Cao Pháp Viện đều đồng loạt đứng về phía Dân Chủ để quyết định cho ông Joe Biden – một chính trị gia bất tài, mất trí nhớ, tham nhũng – trở thành nhà lãnh đạo Hoa Kỳ và Thế giới Tự do.

Mọi người đều nhận thấy nền chính trị của nước Mỹ đang gặp cơn khủng hoảng về đạo đức, lương tri, nhân cách. Tôi xin chứng minh để quý vị thấy nguyên nhân nào đã đưa nước Mỹ bị lâm vào tình trạng tồi tệ như ngày hôm nay.

Năm 1954, thế lực Quốc tế đã chia nước Việt Nam ra làm đôi: Từ vĩ tuyến 17 trở lên phía Bắc thuộc về phía cộng sản – tay sai Nga Tàu Cộng. Từ vĩ tuyến 17 trở xuống phía Nam thuộc về phía Quốc gia mà thực chất là do Thực dân Pháp quản trị. Hoa Kỳ không chịu tìm hiểu tình hình chính trị của Miền Nam chưa hoàn toàn thoát khỏi ảnh hưởng Thực dân Pháp mà đòi hỏi nhà lãnh đạo Miền Nam phải xây dựng một thể chế dân chủ như Tây phương là hoàn toàn sai. Ngoài ra, Miền Nam làm sao có đủ khả năng quân sự, chính trị để chống lại toàn khối cộng sản quốc tế? Lại thêm, Mỹ cung cấp cho Miền Nam thứ vũ khí phế thải từ Đệ Nhất Thế Chiến thì lại càng là một điều phi lý hơn nữa.

Mặc dầu với những khó khăn do người Mỹ gây ra cho lãnh đạo Miền Nam, Tổng thống Ngô Đình Diệm vừa lo xây dựng dân chủ, vừa lo kiến thiết xứ sở đổ nát, hoang tàn sau chiến tranh, nhưng đã đạt những thành công vượt bực. Tổng thống Eisenhower đã không ngần ngại so sánh Tổng thống Ngô Đình Diệm với Thủ tướng Nehru của Ấn Độ. Thật hiếm có một nhà lãnh đạo từ một quốc gia nhược tiểu mà được đọc bài diễn văn trước Lưỡng viện Quốc Hội Hoa Kỳ, giống như Thủ tướng Winston Churchill của Anh quốc đã từng đọc, với nhiều tràng pháo tay tán thưởng nhiệt liệt.

Tháng 11 năm 1963, chính quyền của Tổng thống John Kennedy đã dùng tiền mua chuộc các Tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa làm cuộc đảo chánh và giết cả nhà anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm. Con thuyền Việt Nam bị mất người cầm lái. Tình hình chính trị Miền Nam nát bét như tương do các Tướng lãnh thi đua nhau đảo chánh và Việt Cộng sử dụng Phật giáo quấy rối liên tục ở hậu phương. Hoa Kỳ tưởng rằng với sức mạnh quân sự vô địch của mình, thì diệt phiến quân Việt Cộng dễ dàng. Không ngờ, Hoa Kỳ bị thảm bại trước kiểu “chiến tranh nhân dân” của Trung Cộng. Mặc dù Hoa Kỳ đã quốc tế hóa cuộc chiến tranh Việt Nam bằng cách trả tiền cho các quốc gia Đồng Minh như Đại Hàn, Thái Lan, Phi Luật Tân, Úc châu đưa quân vào Miền Nam tham chiến, nhưng vẫn thất bại, vì Miền Nam bị rơi vào cuộc khủng hoảng lãnh đạo. Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ đã ổn định tình thế, nhưng phạm một sai lầm nghiêm trọng, khi nhường chính quyền cho Tướng Nguyễn văn Thiệu thối nát, tham nhũng, mua quan bán chức. Vì không chịu áp dụng chiến lược giống như Tướng Douglas MacArthur đánh cộng sản trên đất địch để mau chóng kết liễu chiến tranh. Người dân Mỹ mất kiên nhẫn vì con cái họ chết cho một chế độ bất xứng. Phong trào chống chiến tranh tại Mỹ quốc nổ ra, giúp cho bọn tay sai Việt Cộng ở Miền Nam thừa cơ nổi lên hô hào đòi hòa bình bằng mọi giá, mà không đòi quân xâm lăng rút về Miền Bắc.
Henry Kissinger cố vấn Tổng thống Richard Nixon bay sang Bắc Kinh bàn tính hòa bình, bỏ rơi Miền Nam. Năm 1960, Nikita Khrushchev tổ chức Đại hội 20 Quốc tế Cộng sản, đề ra chủ trương “chung sống hòa bình” (peaceful coexistence) với phe Tư Bản. Mao Trạch Đông cực lực chống, kết tội Khrushchev phản bội cuộc cách mạng vô sản và đầu hàng Đế quốc Mỹ. Điều đó chứng tỏ rằng Mao Trạch Đông quyết tâm tiêu diệt Tư Bản cho kỳ được. Những lãnh đạo Hoa Kỳ bất chấp những lời cảnh báo của Hoàng đế Napoléon “đừng bao giờ đánh thức con quái vật Tàu thức dậy”, cũng như mối “Họa Da Vàng” (Yellow Peril) được đề cập tới từ thế kỷ 19.

Henry Kissinger xoa dịu những chính khách bảo thủ Hoa Kỳ phản đối cuộc bắt tay với Mao Trạch Đông, bằng cách thuyết phục về thị trường béo bở của 1 tỷ 300 triệu dân và bằng lập luận nâng mức nghèo khó của dân Tàu lên giai cấp trung lưu thì lý tưởng cộng sản sẽ cáo chung. Henry Kissinger và trí thức của thế giới đã sai lầm khi nghĩ rằng phong trào cộng sản thế giới thành công là nhờ vào lý tưởng công bằng xã hội. Thực tế cho ta thấy rằng Lénine – một nhà tổ chức vĩ đại – đã đưa phong trào cộng sản đến thắng lợi, chứ không phải nhờ vào lý tưởng cộng sản. Những cuốn sách như Tuyên Ngôn Cộng Sản, Tư Bản Luận của Karl Marx là một mớ lý thuyết phản khoa học, chẳng ai thèm đọc.

Câu nói bất hủ của Lénine là:

  • “Tổ chức! Tổ Chức! Tổ Chức! Không có Tổ Chức là không có gì cả!”

Tổ chức của cộng sản man rợ ghê gớm hơn bất cứ tổ chức đảng cướp nào trên thế giới, ngay cả Mafia cũng không thể sánh bằng. Nó có khả năng đào tạo cán bộ thành những con dã thú chẳng còn lương tri: dám giết cha, giết mẹ, giết anh em, giết vợ chồng và tuyệt đối trung thành với đảng mà không có một đảng chính trị nào làm được. Người cán bộ cộng sản bắt buộc phải luôn luôn ghi nhớ phương châm “Cứu cánh biện minh phương tiện” để giành cho kỳ được quyền cai trị về tay mình, bất chấp đạo đức.

Cái chết của Hoa Kỳ khởi đi từ sự bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa và đến bắt tay Trung Cộng. Tôi xin đem sự kiện Việt Cộng lũng đoạn Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Tỵ Nạn Cộng Sản như thế nào để quý vị thấy rằng Trung Cộng là bậc thầy của Việt Cộng thì sự phá nát nền dân chủ pháp trị của Mỹ khủng khiếp gấp vạn lần.

Trương Như Tảng là một trí thức Miền Nam, theo Mặt trận Dân tộc Giải phóng, làm tới chức Bộ trưởng Tư Pháp trong cái gọi là Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam. Sau năm 1975, nếm mùi cộng sản không bao lâu, ông vượt biển tìm tự do. Sang Pháp, ông kể chuyện Đại tướng Mai Chí Thọ, Bộ trưởng Công An Việt Cộng, nói với trí thức Miền Nam: “HỒ CHÍ MINH có thể là một quỷ dữ. Nixon có thể là một vĩ nhân. Người Mỹ có thể có chính nghĩa, chúng ta có thể không có chính nghĩa. Nhưng chúng ta đã chiến thắng và người Mỹ đã bị đánh bại, bởi vì, nhờ chúng ta đã thuyết phục được người dân tin rằng Hồ Chí Minh là một vĩ nhân. Nixon và người Mỹ là kẻ xâm lược.

Yếu tố chủ chốt là chúng ta làm sao kiểm soát được người dân và ý tưởng của họ. Chỉ có chủ nghĩa Mác-Lê mới làm được như vậy.

Không ai trong các anh có thể nghĩ tới sự kháng cự chế độ cộng sản.

Các anh là người trí thức, nghe tôi nói sự thực thì các hãy nhớ kỹ điều đó”.


Việt Cộng đã cướp Miền Nam, đặt nền cai trị sắt máu lên toàn cõi đất nước. Nhưng Việt Cộng không bao giờ từ bỏ sự khống chế đồng bào Việt Nam, dù ở bất cứ nơi đâu. Biết thế nào một số người Quốc gia sẽ đi tìm tự do, chúng đã cài một số thành phần mang danh Quốc gia nhưng là tay sai của chúng trà trộn vào.

  • Chẳng hạn cư sĩ Phật giáo Trần Quang Thuận là phát ngôn viên chính thức của “Thầy Trí Quang”, nhưng không ở lại đất nước để hưởng thành quả cách mạng, lại ra nước ngoài để làm công tác tuyên truyền bằng cách kêu gọi VỀ NGUỒN.
  • Tướng Đỗ Mậu được tay sai viết cuốn “Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi” để bôi nhọ chính nghĩa Việt Nam Cộng Hòa và chà đạp lãnh tụ Ngô Đình Diệm. Tại sao bọn tay sai Việt Cộng giúp Đỗ Mậu viết cuốn sách đó? Tại vì Việt Cộng không muốn người Việt Nam Cộng Hòa coi cuộc chiến đấu của mình có chính nghĩa.

Lý tưởng tự do dân chủ của Miền Nam bị Việt Cộng coi là ngụy, trong khi chính Lê Duẩn thú nhận Việt Cộng đánh Pháp, đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, cho Trung Cộng. Bất cứ ai đề cao tinh thần yêu nước của Tổng thống Ngô Đình Diệm, đều bị Việt Cộng nằm vùng khép tội “hoài Ngô” hoặc bọn “Cần Lao Công Giáo”.

  • Trần Chung Ngọc động viên vào Trường Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định ngày 1 tháng 10 năm 1951, được Việt Nam Cộng Hòa cho sang Hoa Kỳ du học, đỗ bằng Tiến sĩ Vật Lý, là người hợp tác với Giao Điểm, viết những bài mạt sát đạo Công Giáo rất nặng nề. Đến nỗi bà Đào Nương Hoàng Dược Thảo đặt cho cái ngoại danh: “Trần Chôn Ngược”.

Mặt trận Phục Quốc của người anh hùng Trần văn Bá ở Paris cũng như Mặt trận Kháng Chiến của Phó Đề đốc Hải Quân Hoàng Cơ Minh đều do tình báo Việt Cộng gài bẫy đưa vào tròng. Tôi đã viết bài để chứng minh sự quỷ quyết của tình báo Việt Cộng thì dư đảng Kháng Chiến HCM rộ lên phản đối, vì những người này vẫn cố tình đánh lừa Kháng Chiến HCM là thật!

Hai sinh viên Việt Nam Cộng Hòa du học ở Pháp, về Việt Nam được giữ chức vụ lớn trong Chính quyền. Sau năm 30 tháng Tư năm 1975 cả hai ở lại làm việc với quân xâm lược. Rồi được đảng tổ chức cho ra nước ngoài bằng đường chính thức.

1.     Đó là “kinh tế gia” Nguyễn Xuân Nghĩa chui vào Mặt trận Hoàng Cơ Minh, giữ chức Tổng Tuyên Huấn để điều khiển tờ báo Kháng Chiến tuyên truyền sự bịp bợm với mục đích làm mất Niềm Tin của đồng bào. Một người ở địa vị lãnh đạo của Mặt trận Hoàng Cơ Minh, ông Nguyễn Xuân Nghĩa, mạt sát nhà văn hóa được cả nước tôn thờ – Cụ Chu văn An – là “thằng cà chớn” thì đâu phải ngẫu hứng trong cơn say xỉn? Nếu say, ông Nghĩa đã có lời xin lỗi.      

2.     Người thứ hai là Nguyễn Gia Kiểng viết sách “Tổ Quốc Ăn Năn” với chủ trương hòa giải hòa hợp dân tộc để đề nghị người Việt Nam gồm Quốc gia lẫn Cộng Sản về đứng trước mộ tên tội đồ Hồ Chí Minh để nói lời sám hối. Ông Kiểng thừa biết chỉ có kẻ thắng trận mới chủ động việc hòa giải hòa hợp dân tộc để đoàn kết quốc gia. Phía thua trận thì lấy tư cách gì để hòa giải hòa hợp với kẻ thắng trận vẫn một mực bóc lột nhân dân tận xương tủy? Mục đích Việt Cộng dùng Nguyễn Gia Kiểng tuyên truyền luận điệu “hòa hợp hòa giải dân tộc” là để gây nên cuộc tranh cãi bất tận nhằm phân hóa lực lượng Chống Cộng mà thôi.

3.     Một ông Đại tá Cựu Tư Lệnh Không Quân, được Tổng thống Ngô Đình Diệm cho du học, khi thành tài thì trốn luôn không trở về phục vụ đất nước (đào ngũ), lại được mấy ông Tướng thu xếp đưa lên chức Chủ tịch Tập thể Chiến sĩ để chỉ làm những việc như kéo cờ lên, hạ cờ xuống, phủ cờ, xếp cờ, hát Quốc ca, phút mặc niệm mà không phát hành nổi một tờ báo để chống lại mánh khóe tuyên truyền của Việt Cộng. Vì thế, Tập thể Chiến sĩ mới có những phần tử thừa kế vô tư cách điếu đóm bợ đỡ một cách trơ trẽn tên trọc phú khinh thường phe Quốc gia.

Hiện tượng Chùa mọc ra như nấm cũng không phải vì do lòng sùng bái Đức Phật. Thử hỏi con cái phía Quốc Gia có bao nhiêu người đi tu để có thể làm trụ trì giảng Phật pháp tại hàng trăm ngôi Chùa “hoành tráng”? Tất nhiên, Việt Cộng phải xuất cảng các Thầy Chùa Quốc doanh (Công An trá hình) ra khắp thế giới để đảm đương việc hoằng pháp! Thiền Sư Nhất Hạnh vốn là nhà hoạt động đòi hòa bình bằng mọi giá, dùng tiền của đạo hữu đăng báo kết tội Hoa Kỳ dội bom giết chết 300 ngàn thường dân vô tội ở Kiến Hòa sau vụ khủng bố “September 11”, đều có chủ đích cả, chứ không phải tình cờ. Phía Công Giáo cũng được Việt Cộng sử dụng, nhưng tinh vi hơn vì tổ chức Công giáo chặt chẽ, khó lòng mở dịch vụ xây Chùa như bên Phật giáo, được những nhà giàu tài trợ để khỏi phải đóng thuế, lại được hưởng tiếng thơm!

Việt Cộng còn sử dụng cái đám RINO (Refugee In Name Only), tức là những phần tử tồi bại giả danh tị nạn cộng sản để làm công tác tuyên truyền cho Việt Cộng, Trung Cộng chống Tổng thống Donald Trump. Thử hỏi dân tộc Việt Nam bị Tàu đô hộ 1 ngàn năm, Việt Cộng đô hộ toàn cõi đất nước ngót nửa thế kỷ, lý do gì khiến những đứa mang danh nghĩa tị nạn cộng sản lại lớn tiếng chửi Tổng thống Donald Trump chủ trương “Make America Great Again” để đủ sức mạnh chống lại tham vọng thống trị thế giới của Trung Cộng và lý do gì ủng hộ chủ trương phá hoại đất nước của đảng Dân Chủ với lão già lú lẫn lên ngôi Tổng thống nhờ sự gian lận?

Thưa quý vị Tướng Lãnh Hoa Kỳ gốc Việt,

Tôi tường trình sơ lược những thủ đoạn phá hoại của Việt Cộng để quý vị thấy rằng Trung Cộng, bậc thầy của Việt Cộng, thì sự phá hoại của Trung Cộng ghê gớm hơn, đã làm cho nền chính trị, an ninh quốc phòng của Hoa Kỳ trở nên bệ rạc như ngày nay. Trung Cộng có tài hối lộ bậc nhất thế giới và có quá khứ “buôn vua”. Vì Hoa Kỳ đã không dùng sức mạnh quân sự để dứt điểm chiến tranh Việt Nam, nên mới nảy sinh ra phong trào phản chiến, tạo cơ hội cho chủ nghĩa cộng sản lợi dụng sự bất mãn trong nhân dân nhằm phát triển tổ chức.

Chỉ có cộng sản mới đề ra khẩu hiệu :

  • “Trường kỳ mai phục”, tức là kiên trì lợi dụng sự sơ hở của kẻ thù để tấn công.
  • Tổ chức đảng của Hoa Kỳ lỏng lẻo càng dễ cho Trung Cộng đưa người vào nằm vùng.
  • Bang giao với Trung Cộng, Hoa Kỳ đã mở rộng cửa cho kẻ thù vào sát nách để tiêu diệt mình.
  • Trước hết, các giáo sư Đại học tả khuynh nhồi sọ sinh viên tư tưởng xã hội chủ nghĩa và chống Tôn giáo.
  • Tiếp theo, lợi dụng chính quyền Bill Clinton cho hưởng quy chế tối huệ quốc, Trung Cộng mỗi năm “rút ruột” Hoa Kỳ 500 tỷ đô-la. Với số tiền đó, Trung Cộng đã thừa sức mua cả nước Mỹ bằng tiền của Mỹ.
  • Barack Hussein Obama, một người chẳng có thành tích gì đáng kể, có tín ngưỡng Hồi giáo và tư tưởng cộng sản mà lên ngôi Tổng thống lãnh đạo nước Mỹ thì tình báo Mỹ phải biết, nhưng trót ăn tiền hối lộ của Trung Cộng, còn ai lên tiếng? Obama xếp đặt người của mình vào cơ quan an ninh FBI, CIA và có thể cả Tướng lãnh nắm những vị trí chủ chốt trong Quân Đội để truyền ngôi cho người kế vị của mình là bà Hillary Clinton, một người say sưa với quyền lợi cá nhân hơn là sự sống còn của Quốc gia.

Nhắc lại lời của Mai Chí Thọ, chỉ có cộng sản mới có thể biến một đồ tễ thành Thánh hoặc ngược lại. Truyền thông thổ tả và đảng Dân Chủ cũng đã biến một người người hết lòng vì đất nước, đã đoạt những thành quả vượt trội hơn bất cứ Tổng thống nào trong quá khứ thành quái vật, thành đồ tễ. Đó là bản chất của cộng sản mà mấy đứa Việt Nam tỵ nạn cộng sản đang thi hành hiện nay. Thật nhục nhã cho nòi giống Việt Nam!

Qua cuộc bầu cử ngày 3 tháng 11 năm 2020, ngoại trừ những phần tử phản quốc mới không thấy Trung Cộng đang nắm đầu ba ngành Hành Pháp, Lập Pháp, Tư Pháp và Truyền thông của nước Mỹ mà thôi. Dù Tổng thống Donald Trump đã nắm trong tay các chứng cớ gian lận của đảng Dân chủ, dù Tối Cao Pháp Viện có 6 quan tòa thuộc khuynh hướng bảo thủ (mà trong đó có 3 quan tòa do Tổng thống Donald Trump đề cử) vẫn xử cho Joe Biden thắng, thì chẳng còn một ai có chút hy vọng nào vào nền Cộng Hòa của nước Mỹ. Ngay cả các quốc gia kém mở mang trên thế giới cũng khinh bỉ nền dân chủ nước Mỹ.

Tổng thống Donald Trump đọc bài diễn văn gần 2 giờ trong Đại hội CPAC được cử tọa đứng lên vỗ tay ca ngợi nhiều lần. Nhưng ông hứa hẹn sẽ thanh lọc những phần tử phản bội gồm 7 Thượng Nghị sĩ và 10 Dân biểu, cải tổ hệ thống bầu cử để đoạt chiến thắng Lưỡng viện Quốc Hội năm 2022. Tôi không tin ông Trump sẽ thành công, vì:

  • 1/ Truyền thông thổ tả đang thống trị dư luận nước Mỹ. Đảng Dân Chủ đang có kế hoạch triệt hạ bằng nhiều cách, kể cả khủng bố, những ai ủng hộ Tổng thống Donald Trump. Ngay như vụ Covid Vũ Hán là vũ khí sinh học của Trung Cộng đánh vào nền kinh tế Hoa Kỳ và Thế giới, mà đảng Dân Chủ dùng nó làm lợi thế chính trị cho mình. Điều đó đủ chứng tỏ cho mọi người thấy đảng Dân Chủ đứng về phía kẻ thù hay về phía nhân dân Hoa Kỳ

    2/ Đảng Dân Chủ sẽ làm cho kinh tế kiệt quệ. Bằng chứng là Joe Biden đã ký những Lệnh Hành Pháp đều gây thiệt hại cho Mỹ như khóa ống dẫn dầu làm cho công nhân thất nghiệp, tăng thuế, đem tiền thuế của dân đóng góp một cách vô bổ vào các Tổ chức Quốc tế.

    3/ Muốn thắng cử, đảng viên Cộng Hòa phải có thật nhiều tiền. Nhưng liệu đảng Cộng Hòa có tiền dồi dào như Trung Cộng và Nhà Nước Ngầm để chiến thắng đảng Dân Chủ? Tổng thống Donald Trump đang cầm quyền, mà đảng Dân Chủ và Trung Cộng toa rập nhau cướp chính quyền bằng gian lận, cũng đành bó tay. Làm sao Tổng thống Donald Trump có thể tạo chiến thắng Lưỡng viện Quốc hội cho đảng Cộng Hòa?

Thưa quý vị Tướng Lãnh Hoa Kỳ gốc Việt,

Tôi là một Phật tử từ đời Ông, đời Cha. Nhưng tôi tin “Một sợi tóc rơi cũng là ý Chúa”. Cho nên, đáng lý ra Tổng thống Donald Trump thắng cử vào ngày 3 tháng 11 dễ dàng vì thành tích vượt bực của ông mang về cho nước Mỹ, vì sự hưởng ứng nồng nhiệt của đồng bào cử tri ủng hộ trong những lần ông đi vận động, vì đối thủ của ông là một con gà chết. Nhưng ông thất cử là do ý Chúa! Tại sao ư? Vì Chúa muốn ông Trump thất cử để cho toàn dân Mỹ nhìn thấy sự can thiệp của Trung Cộng, thấy sự phản bội của những RINO (Republican In Name Only) trong ba ngành Hành Pháp, Lập Pháp, Tư Pháp, thấy được ảnh hưởng của Nhà Nước Ngầm và thấy được tội ác của Quỷ sứ Sa-tăng uống máu trẻ em.

Câu hỏi đặt ra là:

“Chẳng lẽ toàn dân Mỹ thấy, thế giới thấy nền dân chủ Hoa Kỳ đang rơi vào cuộc khủng hoảng kinh hồn, mà những Tướng lãnh đang có quyền bính và vũ khí trong tay, lại không thấy, đành để yên cho lãnh đạo của đất nước mình bị Trung Cộng sai khiến như một đàn cừu, không cần một phát súng bắn ra?

Tối cao Pháp viện là cơ quan phân xử vấn đề Hợp Hiến hay Bất Hợp Hiến. Nhưng ngày nay ai cũng thấy Hiến Pháp Hoa Kỳ đã bị trở thành vô dụng. Truyền thống Quân đội Hoa Kỳ là đứng ngoài cuộc tranh chấp chính trị giữa hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ. Nhưng hiện nay, nền Dân chủ Pháp trị của Hoa Kỳ đang bị đảng Dân Chủ và Nhà Nước Ngầm ném vào thùng rác. Liệu các Tướng Lãnh có thể khoanh tay ngồi yên, để mặc cho bọn chính trị gia thối nát của hai đảng dâng đất nước đẹp đẽ này cho Trung Cộng ?

Tất cả các Tướng Lãnh Hoa Kỳ đều hiểu rằng nếu sức mạnh quân sự nằm trong tay Hoa Kỳ thì thế giới có hòa bình. Còn sức mạnh quân sự nằm trong tay Trung Cộng, thì thế giới lãnh tai họa, toàn thể nhân loại sẽ bị cưỡng bức thành súc vật.

  • Thử hỏi có đời Tổng thống nào đã chăm lo sức khỏe cho Cựu Quân Nhân (Veteran) như Tổng thống Donald Trump?
  • Thử hỏi có Tổng thống nào đã dám dời Tòa Đại sứ đến Jerusalem?
    Tổng thống nào đã đặt chân lên đất nước Bắc Hàn và buộc Kim Jong-Un ngừng đe dọa vũ khí nguyên tử?
  • Tổng thống nào đã làm môi giới cho Do Thái ký hiệp ước hòa bình với các Quốc gia Ả Rập?
  • Tổng thống nào đã mang những con tin về nước mà không tốn một đồng xu?
    Tổng thống nào được nhiều Quốc gia trên thế giới đề nghị giải thưởng Nobel Hòa Bình?
    Tổng thống nào đã đưa con số thất nghiệp của những người thuộc mọi chủng tộc xuống mức thấp nhất hơn nửa thế kỷ qua?

Trong khi đó tập đoàn lãnh đạo đảng Dân Chủ đều hèn hạ quỳ gối trước anh tội phạm George Floyd để xin phiếu Da Đen và Tổng thống mắc bệnh mất trí, ngồi ký Lệnh Hành pháp mà không biết nội dung. Với thành phần lãnh đạo hèn hạ như thế làm sao có thể chế ngự nổi tham vọng bành trướng của Trung Cộng? Tôi nghĩ rằng Trung Cộng sẽ nắn gân Chính quyền Joe Biden bằng cách đánh chiếm Đài Loan để thăm dò phản ứng của Tướng lãnh Hoa Kỳ. Miền Nam bị Mỹ cắt viện trợ kinh tế, vũ khí nên Tướng lãnh Miền Nam đành phải bỏ chạy. Chẳng lẽ Tướng lãnh Hoa Kỳ đang ngồi trên kho vũ khí tối tân mà lại để cho Trung Cộng bắt chẹt? Trong tình thế đó, chắc chắn chiến tranh nguyên tử sẽ xảy ra. Vậy nước Mỹ muốn tránh cuộc chiến tranh nguyên tử, Tướng Lãnh Hoa Kỳ chỉ còn có cách là chính họ phải tát cạn đầm lầy và tổ chức cuộc Tổng tuyển cử Tổng thống lẫn Quốc Hội thì mới mong quét sạch bọn chính trị gia tham nhũng, phản quốc và tập đoàn truyền thông thổ tả.

Giải pháp quân sự là giải pháp cuối cùng cho đất nước không còn nền pháp trị. Hiến Pháp đã bị ném vào sọt rác. Nếu Joe Biden bị giải nhiệm vì lý do sức khỏe, liệu các Tướng Lãnh có coi bà Kamala Harris xứng đáng là Tổng Tư Lệnh Quân Đội để chỉ huy mình không? Bản thân quý vị Tướng lãnh Hoa Kỳ gốc Việt có vui không, khi bị phục vụ dưới quyền một vị Tổng Tư Lệnh có xu hướng cộng sản? Tôi rất hiểu quý vị Tướng lãnh Hoa Kỳ gốc Việt bị ràng buộc bởi luật Quân đội, không được phép công khai bày tỏ lập trường chính trị. Vì vậy, tôi chỉ nhờ quý vị bằng cách nào đó chuyển đạt đề nghị của tôi lên thượng cấp của quý vị là những người có thẩm quyền quyết định vận mạng của quốc gia Hoa Kỳ.

Tôi bảo đảm rằng nếu Tướng Lãnh Hoa Kỳ an phận, không dám hành động cứu nước, Mỹ và thế giới sẽ nằm dưới ách thống trị của Trung Cộng. Tôi đã tiên đoán trúng phóc Miền Nam sẽ mất khi biết tin Richard Nixon sang Bắc Kinh bắt tay Mao Trạch Đông. Lần này tôi cũng sẽ đoán trúng phóc Mỹ sẽ mất vào tay Trung Cộng, nếu Tướng Lãnh Hoa Kỳ không dám nhận lãnh trách nhiệm tát cạn đầm lầy. Tôi chỉ có một ước mơ duy nhất là nước Mỹ và thế giới tự do, khi nhìn thấy Trung Cộng là tai họa của thế giới thì họ phải kết hợp nhau thanh toán con quỷ Sa-tăng này để cả thế giới thoát khỏi sự lũng đoạn và nhiễm mầm tự hoại do chúng cấy vào, và để cho nước Việt Nam của chúng ta được tồn tại. Nếu được như vậy thì giấc mơ của tôi được về quê nhà, khi lìa đời được chôn cạnh mộ phần của MẸ được thỏa nguyện.

Trân trọng kính chào quý vị và kính mong quý vị cứu xét nguyện vọng của tôi.

Bằng Phong Đặng văn Âu
Telephone: 714 – 276 – 5600
Email Address: bangphongdva033@gmail.com

Thursday, May 29, 2025

SỬ DỤNG VŨ KHÍ SINH HỌC - QUÉT SẠCH NƯỚC MỸ - TRÌ HẠO ĐIỀN.

 

 Trì Hạo Điền: SỬ DỤNG VŨ KHÍ SINH HỌC, QUÉT SẠCH NƯỚC MỸ


SỬ DỤNG VŨ KHÍ SINH HỌC, QUÉT SẠCH NƯỚC MỸ

Trì Hạo Điền

Bài phát biểu của tướng Trì Hạo Điền - nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Trung Quốc tại Hội nghị các tướng lĩnh bàn về chiến lược chiến tranh tương lai tổ chức năm 2005 …
(Tài liệu được công bố trên Tạp chí Các vấn đề chiến lược, Ấn Độ, 15.4.2009)


Các nhà lãnh đạo Trung Quốc thường tuyên bố sự trỗi dậy của Trung Quốc hoàn toàn mang tính chất hoà bình và rằng Trung Quốc không có tham vọng bành trướng. Tuy nhiên, bài phát biểu của Bộ trưởng quốc phòng tại hội nghị các tướng lĩnh Trung Quốc về Chiến lược chiến tranh tương lai cách đây 4 năm lại cho thấy viên tướng này coi người Trung Quốc là chủng tộc siêu đẳng nhất thế giới và họ có sứ mệnh phải quét sạch nước Mỹ để làm bá chủ thế giới. Sự thay đổi của Trung Quốc đang làm thay đổi cán cân chiến lược, ít nhất là ở khu vực châu Á. Nhưng không ai có thể biết được khuôn hình và kết quả tương lai của sự thay đổi đó. Dư luận rộng rãi trên thế giới nghi ngờ về tham vọng bá quyền của Trung Quốc. Đây là một quá trình không thể dừng lại được. Dưới đây là toàn văn bài phát biểu của Tướng Trì Hạo Điền phản ánh một số khía cạnh của tư duy chiến lược của Trung Quốc hiện nay.


Như mọi người đều biết, theo quan điểm truyền bá của các học giả phương Tây, toàn thể loài người trên Trái Đất có nguồn gốc chung từ một người mẹ duy nhất ở Châu Phi. Như vậy, không một chủng tộc nào có thể tự nhận mình là chủng tộc siêu đẳng nhất. Tuy nhiên, theo các nghiên cứu của đại đa số các học giả Trung Quốc, người Trung Quốc khác với các chủng tộc khác trên thế giới. Chúng ta không có nguồn gốc từ Châu Phi. Trái lại, chúng ta có nguồn gốc độc lập trên đất Trung Quốc. Nguời Bắc Kinh ở Chu Khẩu Điếm mà tất cả chúng ta đều bắt nguồn từ đó đại diện cho một giai đoạn tiến hoá của tổ tiên chúng ta.

Nguồn gốc nền văn minh Trung Hoa

Trước đây, chúng ta thường nói rằng nền văn minh Trung Quốc có lịch sử 5.000 năm. Nhưng hiện nay, rất nhiều chuyên gia nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có khảo cổ học, văn hóa sắc tộc, và văn hoá khu vực đã đi tới một sự thống nhất rằng các phát hiện mới như nền văn hoá Hongshan ở vùng Đông Bắc, nền văn hoá Liangzu ở tỉnh Chiết Giang, các phế tích Jinsha ở tỉnh Tứ Xuyên, và khu di tích văn hoá đế chế Yongzhou ở tỉnh Hồ Nam tất cả đều cho thấy bằng chứng về sự tồn tại của nền văn minh tiền Trung Quốc, và chúng khẳng định rằng riêng lịch sử canh tác lúa đã có từ 8.000-10.000 năm truớc đây. Điều này bác bỏ quan niệm về lịch sử 5.000 năm của Trung Quốc…

Bởi vậy, chúng ta có thể xác định rằng chúng ta là sản phẩm của nền văn hoá có nguồn gốc từ cách đây hơn 1 triệu năm, nền văn minh và tiến bộ với lịch sử hơn 10.000 năm, một dân tộc có 5.000 năm lịch sử, và một thực tế Trung Quốc với lịch sử hơn 2.000 năm. Đó là dân tộc Trung Quốc tự gọi mình như vậy.Là dòng dõi của Viêm và Hoàng, dân tộc Trung Quốc mà chúng ta tự hào thuộc về dân tộc đó. Nước Đức Hitle đã từng kiêu hãnh tự coi mình là chủng tộc siêu đẳng nhất trên Trái đất, nhưng thực tế là dân tộc chúng ta còn siêu việt hơn người Đức rất nhiều.

Đã có nhiều bài học, trong đó có bài học về sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu, cũng như bài học về tại sao Đức và Nhật Bản lại thất bại trong Chiến tranh thế giới thứ Hai. Đã có rất nhiều cuộc thảo luận về sự sụp đổ của chủ nghĩa Cộng sản ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Hôm nay, điều quan trọng với chúng ta là nói về các bài học thất bại của Đức và Nhật Bản.

Như mọi người đều biết, nước Đức phát xít cũng nhấn mạnh rất nhiều về vấn đề giáo dục cho dân chúng, đặc biệt là cho thế hệ trẻ. Đảng và Chính phủ quốc xã đã tổ chức và xây dựng rất nhiều thể chế tuyên truyền giáo dục, ví như Cơ quan hướng dẫn tuyên truyền quốc gia, Bộ Giáo dục và tuyên truyền quốc gia, Cục thanh tra nghiên cứu dư luận thế giới và giáo dục, và Cơ quan thông tin, tất cả đều nhằm gieo vào tâm trí của dân chúng Đức, từ học sinh các lớp tiểu học đến các trường đại học, là dân tộc Đức là chủng tộc thượng đẳng, và thuyết phục dân chúng rằng sứ mệnh lịch sử của chủng tộc Ariăng (Arian) là trở thành chủ nhân thế giới và thống trị toàn thế giới. Khi đó, nhân dân Đức thống nhất chặt chẽ hơn nhiều so với chúng ta hiện nay.

Tuy vậy, nước Đức đã bị thất bại nhục nhã cùng với nước Nhật Bản đồng minh. Vì sao vậy? Chúng ta đã đi tới một số kết luận tại các hội nghị nghiên cứu của Bộ Chính trị để nghiên cứu về các quy luật quyết định sự thăng trầm của các cường quốc lớn, và tìm cách phân tích sự phát triển nhanh chóng của Đức và Nhật Bản. Khi đó, chúng ra đã quyết định xây dựng mô hình đất nước dựa theo mô hình nước Đức, song chúng ta quyết không lặp lại các sai lầm mà người Đức đã mắc phải.

Xin nêu ra những nguyên nhân cơ bản dẫn tới thất bại của họ: Thứ nhất, họ có quá nhiều kẻ thù cùng một lúc, bởi họ đã không tuân theo nguyên tắc là chỉ tiêu diệt kẻ thù ở một thời điểm nhất định; Thứ hai, họ quá hăng hái, thiếu sự kiên nhẫn và bền gan, những phẩm chất đòi hỏi phải có để thực hiện những sự nghiệp vĩ đại; Thứ ba, khi tới thời điểm đòi hỏi phải tỏ ra tàn bạo thì họ lại tỏ ra quá mềm yếu, do vậy đã để lại những nguy cơ bộc lộ về sau này.

Giả dụ khi đó, Đức và Nhật có thể làm cho Mỹ đứng trung lập và tiến hành chiến tranh từng bước đối với Liên Xô. Nếu thực hiện chiến lược đó, tranh thủ thời gian đẩy nhanh các nghiên cứu và thành công trong việc làm chủ công nghệ hạt nhân và tên lửa, và sử dụng các vũ khí đó bất ngờ tấn công Mỹ và Liên Xô, thì khi đó Mỹ và Liên Xô đã không thể chống lại họ và buộc phải đầu hàng.

Đặc biệt là Nhật Bản đã phạm phải sai lầm khi tiến hành cuộc tấn công bất ngờ vào Trân Châu Cảng. Cuộc tấn công này không nhằm vào các phần có tầm quan trọng sống còn đối với nước Mỹ. Thay vì điều đó, cuộc tấn công này lôi kéo nước Mỹ tham gia chiến tranh, tham gia lực lượng những nước đào huyệt chôn vùi hai nhà nước phát xít Đức và Nhật Bản.

Tất nhiên, nếu họ không phạm 3 sai lầm nói trên và giành chiến thắng, thì lịch sử thế giới đã được viết theo hướng khác hẳn. Trong trường hợp đó, Trung Quốc sẽ không nằm trong tay chúng ta. Nhật Bản có thể chuyển thủ đô của họ tới Trung Quốc và thống trị toàn bộ đất nước Trung Quốc. Sau đó, Trung Quốc và toàn bộ châu Á dưới sự chỉ huy của Nhật Bản với toàn bộ sự thông minh của Phương Đông sẽ chinh phục phương Tây do Đức lãnh đạo và thống nhất toàn thế giới.

Người Trung Hoa có là chủng tộc thượng đẳng?

Như vậy, những nguyên nhân cơ bản dẫn tới thất bại của Đức và Nhật Bản là lịch sử không sắp xếp để họ trở thành những chủ nhân của Trái Đất, vì tóm lại là họ không phải những chủng tộc ưu việt nhất.

So sánh về hình thức bên ngoài, Trung Quốc ngày nay giống một cách đáng ngại với người Đức trước kia. Cả hai đều coi mình là những dân tộc siêu đẳng nhất; cả hai đều có lịch sử bị các cường quốc bên ngoài bóc lột và do vậy đều mang nặng sự hận thù; cả hai đều cảm thấy mình sống trong một không gian rất không phù hợp; cả hai đều giương cao ngọn cờ dân tộc và chủ nghĩa xã hội và gắn cho mình nhãn hiệu chủ nghĩa xã hội quốc gia; cả hai đều có một nhà nước, một đảng, một nhà lãnh đạo, và một học thuyết.

Nhân dân Trung Quốc chúng ta thông minh hơn người Đức bởi xét về cơ bản, chúng ta là chủng tộc ưu việt hơn chủng tộc của họ. Đó là kết quả bởi việc chúng ta có lịch sử lâu đời hơn, đông dân hơn và đất đai rộng lớn hơn. Xét trên cơ sở này, tổ tiên của chúng ta để lại cho chúng ta hai di sản cốt yếu nhất, đó là chủ nghĩa vô thần và sự thống nhất vĩ đại. Đó chính là đức Khổng Tử, người đã sáng lập ra nền văn hoá Trung Quốc và để lại cho chúng ta những di sản này.

Hai di sản nói trên xác định rằng chúng ta có khả năng sống còn cao hơn Phương Tây. Đó là lý do giải thích tại sao chủng tộc Trung Quốc thịnh vượng lâu dài như vậy. Chúng ta có sứ mệnh không được để bị chôn vùi cả trên Thiên đàng cũng như trên Trái đất, bất kể đó là những thảm họa do thiên nhiên, do con người gây ra hay thảm hoạ quốc gia và cho dù chúng nghiêm trọng tới mức nào. Đây là ưu thế của chúng ta.

Ví dụ về phản ứng đối với chiến tranh chẳng hạn. Do cho tới nay nước Mỹ chưa hề nhìn thấy chiến tranh trên đất nước họ, nên một khi các kẻ thù vào đất Mỹ, họ có thể tiến tới tận thủ đô Oasinhtơn trước khi Quốc hội Mỹ kết thúc việc thoả luận và cho phép tổng thống Mỹ tuyên bố tình trạng chiến tranh. Tuy nhiên, đối với chúng ta, chúng ta sẽ không lãng phí thời gian vào những việc tầm thường như vậy. Đồng chí Đặng Tiểu Bình có lần đã nói: Lãnh đạo Đảng sẽ thông qua các quyết định một cách mau lẹ. Một khi các quyết định được thông qua, chúng sẽ được thực hiện ngay lập tức. Sẽ không có việc lãng phí thời gian vào những việc tầm thường như ở các nước tư bản. Đó là ưu thế của chúng ta.

Nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng Cộng sản Trung Quốc được xây dựng trên truyền thống và sự thống nhất vĩ đại. Mặc dù nước Đức phát xít cũng nhấn mạnh tới cơ chế tập trung ở mức cao khi ra các quyết định, song họ chỉ chú trọng tới quyền lực điều hành đất nước, nhưng lại coi thường cơ chế lãnh đạo tập thể ở cấp Trung ương. Bởi thế về sau này Hitle đã bị rất nhiều người phản bội, điều đó đã làm suy kiệt ghê gớm khả năng chiến tranh của Đức quốc xã.

Có một nhận xét rất nổi tiếng trong một bộ phim về sức mạnh và quyền uy: Những kẻ thù thường gặp nhau trên một con đường nhỏ, chỉ có những kẻ dũng cảm mới chiến thắng. Dạng chiến đấu với tinh thần một mất một còn đã cho phép chúng ta dành được quyền lực tại Trung Quốc đại lục. Số phận lịch sử đã quyết định rằng Trung Quốc và Mỹ sẽ không tránh khỏi đối đầu trên một con đường nhỏ và chiến đấu chống lại nhau! Mỹ, không giống như Nga và Nhật Bản, chưa bao giờ làm tổn thương Trung Quốc và cũng giúp Trung Quốc chống lại cuộc chiến đấu chống Nhật Bản. Tuy vậy, Mỹ tất yếu sẽ là trở ngại, trở ngại lớn nhất! Về lâu dài, quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ sẽ là đấu tranh một mất một còn.

Có thời, một số người Mỹ tới thăm Trung Quốc và tìm cách thuyết phục chúng ta rằng mối quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ là một quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Đồng chí Đặng Tiểu Bình khi đó đã trả lời một cách lịch sự: Hãy về nói với chính phủ của các ngài rằng Trung Quốc và Mỹ không có mối quan hệ phụ thuộc và hiểu biết lẫn nhau như vậy. Rõ ràng là đồng chí Đặng Tiểu Bình đã quá lịch sự, đồng chí ấy có thể nói thẳng: Quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ là một trong các quan hệ đấu tranh một mất một còn.

Tất nhiên, hiện giờ không phải là thời gian thích hợp để phá vỡ quan hệ với Mỹ. Chính sách cải cách và mở cửa ra thế giới bên ngoài của chúng ta còn phải dựa vào tiền vốn và công nghệ của họ, chúng ta vẫn còn cần tới nước Mỹ. Do vậy, chúng ta cần phải nỗ lực tăng cường quan hệ của chúng ta với Mỹ, học tập nước Mỹ trên mọi lĩnh vực và sử dụng Mỹ làm tấm gương cho việc tái thiết đất nước.

Quét sạch nước Mỹ

Để giải quyết vấn đề nước Mỹ, chúng ta cần phải vượt lên trên những điều thông thường và hạn chế. Trong lịch sử, khi một nước đánh bại và chiếm đóng một nước khác, họ không thể giết hết dân chúng của nước bị chinh phục một cách hiệu quả bằng gươm hoặc giáo dài, hay thậm chí bằng súng tiểu liên hoặc súng máy. Bởi vì không thể giữ được vùng đất rộng lớn mà không duy trì người của mình trên vùng đất đó. Tuy nhiên, nếu chúng ta chinh phục nước Mỹ theo kiểu đó, chúng ta không thể đưa nhiều người Trung Quốc di cư tới Mỹ.

Chỉ có thể sử dụng nhũng biện pháp đặc biệt để quét sạch nước Mỹ và sau đó chúng ta mới có thể đưa nhân dân Trung Quốc tới đó. Đây là lựa chọn duy nhất đối với chúng ta. Đó không phải là vấn đề chúng ta muốn hay không muốn. Những biện pháp đặc biệt nào chúng ta có thể thực hiện để quét sạch nước Mỹ ? Những loại vũ khí thông thường như máy bay chiến đấu, đại bác, tên lửa hay tàu chiến không thể làm điều đó; các loại vũ khí huỷ diệt như vũ khí hạt nhân cũng không thể làm được như vậy. Chúng ta không ngu ngốc đến nỗi cùng tự huỷ diệt với Mỹ bằng cách sử dụng vũ khí hạt nhân, cho dù trên thực tế chúng ta vẫn tuyên bố giải quyết vấn đề Đài Loan bằng mọi giá.

Chỉ có thể sử dụng loại vũ khí không huỷ diệt, nhưng có khả năng giết nhiều người chúng ta mới có thể giành lấy nước Mỹ cho chúng ta. Công nghệ sinh học hiện đại đang phát triển nhanh chóng, và các loại vũ khí sinh học mới được phát minh nối tiếp nhau. Tất nhiên là chúng ta không để lãng phí thời gian; trong những năm qua chúng ta đã nắm được khả năng trở thành chủ nhân của các loại vũ khí này. Chúng ta có khả năng đạt được mục tiêu quét sạch nước Mỹ một cách hoàn toàn bất ngờ. Khi đồng chí Đặng Tiểu Bình còn sống, Ban chấp hành trung ương Đảng đã sáng suốt đưa ra quyết định đúng đắn là không phát triển các nhóm tàu sân bay và thay vào đó, tập trung phát triển các loại vũ khí có thể thủ tiêu hàng loạt dân chúng của nước thù địch.

Xét về mặt nhân đạo, chúng ta cần phải cảnh báo cho dân chúng Mỹ và thuyết phục họ rời khỏi nước Mỹ và để lại vùng đất họ từng sinh sống trên đó cho người Trung Quốc. Hoặc là ít nhất họ phải rời khỏi một nửa nước Mỹ để nhường phần đất đó cho người Trung Quốc, bởi phát hiện ra nước Mỹ lần đầu tiên chính là người Trung Quốc.

Nhưng sẽ phải làm điều đó như thế nào? Nếu chiến lược đó không thực hiện được, thì khi đó chúng ta chỉ còn một lựa chọn duy nhất. Tức là sử dụng những biện pháp kiên quyết để Quét sạch nước Mỹ và giành lấy nước Mỹ cho chúng ta ngay lập tức. Thực tế lịch sử của chúng ta cho thấy chừng nào chúng ta thực hiện được điều đó, không có nước nào trên thế giới có khả năng ngăn cản chúng ta. Hơn nữa, với một nước Mỹ với một tư cách thế giới bị mất đi, thì tất cả các kẻ thù khác buộc phải đầu hàng chúng ta.

Vũ khí sinh học là một loại vũ khí tàn ác chưa từng thấy, song nếu nước Mỹ không chết thì Trung Quốc sẽ bị huỷ diệt. Nếu nhân dân Trung Quốc bị mắc kẹt trên diện tích đất hiện nay, thì sự sụp đổ hoàn toàn của xã hội Trung Quốc chắc chắn sẽ xảy ra. Theo cách tính mô hình hoá trên máy tính của tác giả Yellow Peril, hơn một nửa dân số Trung Quốc sẽ chết, và con số đó sẽ là hơn 800 triệu người! Ngay sau khi giải phóng, vùng đất màu vàng của chúng ta có khoảng 500 triệu dân, trong khi dân số chính thức hiện nay là hơn 1,3 tỉ người. Khả năng của vùng đất màu vàng này đã đạt tới mức giới hạn của nó. Một ngày nào đó người ta có thể biết điều đó xảy ra nhanh chóng như thế nào, sự sụp đổ lớn có thể xảy ra vào bất kỳ thời điểm nào và hơn một nửa dân số của chúng ta sẽ buộc phải ra đi.

Chúng ta cần phải chuẩn bị sẵn sàng hai phương án. Nếu thành công trong việc sử dụng vũ khí sinh học bất ngờ tấn công nước Mỹ, chúng ta có thể giảm thiểu thiệt hại về người trong cuộc chiến tranh với Mỹ. Nếu trong trường hợp cuộc tấn công đó thất bại, và kích động một cuộc phản công bằng vũ khí hạt nhân từ nước Mỹ, Trung Quốc sẽ phải gánh chịu một thảm hoạ, trong đó hơn một nửa dân số sẽ chết. Bởi vậy, chúng ta cần phải sẵn sàng với các hệ thống phòng không để bảo vệ các thành phố lớn và vừa của Trung Quốc…

Trì Hạo Điền

Monday, May 19, 2025

CÁCH ĐÂY MỘT THẾ KỶ - NGUYÊN NGỌC

 

CÁCH ĐÂY MỘT THẾ KỶ, NHỮNG NGƯỜI KHỔNG LỒ.

 

Gần đây, do những chuyển động mới trong đời sống xã hội và hoạt động tích cực của những người tâm huyết, một số tác phẩm của nhiều người trước đây từng bị coi là “có vấn đề” đã được in và giới thiệu lại, đáng chú ý chẳng hạn những bài viết phong phú, sắc sảo và sinh động, cả cập nhật ngay đối với hôm nay nữa của Phan Khôi, hay những tác phẩm uyên thâm, thống thiết, và lạ thế, cũng cập nhật không kém của Phạm Quỳnh - một tập tiểu luận dịch từ nguyên bản tiếng Pháp của ông đang gây chú ý rộng rãi trong dư luận.

Một nhân vật đặc biệt khác cũng đang thu hút sự quan tâm của nhiều người nhiều giới: Nguyễn Văn Vĩnh. Theo chỗ tôi được biết một bộ phim tài liệu quý về cuộc đời và sự nghiệp của ông đang được chuẩn bị. Tôi có được xem một phần bản thảo phim ấy.

Mở đầu là một người cháu gái của Nguyễn Văn Vĩnh, nay chắc cũng đã quá tuổi tứ tuần, kể chuyện cách đây mấy mươi năm một hôm đi học về tủi thân và khóc ròng, lại gặp cơn mưa lớn, phải vào trú dưới mái hiên một nhà bên đường. Bà cụ chủ nhà thấy có cô học trò đứng dưới hiên nhà mình mà khóc, liền ra hỏi:

“Sao cháu khóc nhiều thế?”.

Cô bé sụt sùi:

“Sáng nay ở lớp cô giáo dạy rằng ông nội cháu là một tên đại Việt gian, tay sai, bồi bút cho thực dân Pháp, cháu buồn, cháu nhục quá…”.

“Vậy ông nội cháu là ai?”.

“Dạ, ông cháu là Nguyễn Văn Vĩnh ạ...”.

Bà cụ ôm chầm lấy cô bé:

“Trời ơi, cháu là cháu nội Tân Nam Tử ư? Ôi, cháu vào ngay đây với bà, cháu không việc gì phải khóc cả, Tân Nam Tử Nguyễn Văn Vĩnh là một người rất vĩ đại, mặc ai nói gì thì nói, cháu phải rất tự hào. Cháu có một người ông từng có công lớn lắm với đất nước này... Rồi xã hội cũng sẽ phải công bằng thôi, cháu ạ...”.

Quả thật ngày nay cuộc sống đã bắt đầu trả lại sự công bằng - muộn mằn và chậm chạp - cho nhân vật cao lớn đến kỳ lạ ấy của đất nước: một nhà văn, một nhà báo, một dịch giả, một nhà văn hóa lớn, hầu như lĩnh vực nào cũng là người khai phá và luôn ở hàng đầu, người sáng lập tờ báo chữ quốc ngữ đầu tiên ở miền Bắc, ông tổ của ngành in hiện đại ở nước ta, người đầu tiên thiết lập nền sân khấu hiện đại ở Việt Nam, và bằng những bài thơ dịch La Fontaine tuyệt vời, cũng là người đầu tiên phá vỡ thể thơ truyền thống, giải phóng thơ Việt ra khỏi khuôn khổ cổ cứng nhắc hàng nghìn năm, mở đường cho thơ mới ra đời, hiện đại hoá thơ Việt, cũng lại là một trong những người tiên phong sáng lập Đông Kinh Nghĩa Thục: một nhà khai sáng chói lọi của đất nước đầu Thế Kỷ XX…

Cuộc sống cũng đã và đang dần dần trả lại công bằng cho một số tên tuổi lớn từng bị soi rọi nhiều chục năm dưới những nguồn sáng chẳng lấy gì làm đẹp đẽ, như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, và không ít người khác nữa, những tài năng xuất chúng, những nhà khai sáng lớn trong một thời kỳ chuyển động lịch sử quan trọng.

Một số nhân vật khác, ít gay cấn hơn, nhưng cũng từng bị hiểu sai, công khai hay lập lờ, bị gán cho những danh hiệu tuỳ tiện và quy chụp, hoặc bị quên lãng, đẩy xuống những hàng khuất lấp bất công, những Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Lương Văn Can, Đào Nguyên Phổ, Trương Gia Mô, Nguyễn Trọng Lợi, Huỳnh Tá Bang, Nguyễn Bá Trác..., nay người ít người nhiều, người sớm người muộn, người đã tương đối rõ ràng người còn phải tiếp tục làm sáng rõ, đã dần dần được đánh giá lại theo đúng tầm cỡ, vị trí và cống hiến của họ trong lịch sử cận đại và hiện đại...

Thời gian đang làm công việc lâu dài mà sòng phẳng của nó, không thế lực, cường quyền nào ngăn chặn được, bất chấp những tiếng la ó ngày càng lạc lõng của ai đó. Đời sống tinh thần, văn hóa, cả chính trị của đất nước vì thế ngày mỗi giàu thêm lên. Và được thụ hưởng là tất cả chúng ta, là nhân dân. Có lẽ còn hơn thế nữa, đây không chỉ là một sự khôi phục công bằng lịch sử lành mạnh. Còn có thể là một đóng góp không hề nhỏ cho chính sự phát triển nhiều triển vọng mà cũng đầy thách thức hôm nay. Bởi những thế hệ quá khứ không chỉ đã đóng trọn vai trò hoá ra là hết sức to lớn của họ, họ còn có thể tham gia trực tiếp vào cuộc đi tới hôm nay của chúng ta, bằng những bài học còn nóng hổi, nếu ta biết từ họ mà đối chiếu và ngẫm nghĩ, từ đó tính lại bao nhiêu công việc của chúng ta bây giờ.

CÁCH ĐÂY MỘT THẾ KỶ, NHỮNG NGƯỜI KHỔNG LỒ.

 

Gần đây, do những chuyển động mới trong đời sống xã hội và hoạt động tích cực của những người tâm huyết, một số tác phẩm của nhiều người trước đây từng bị coi là “có vấn đề” đã được in và giới thiệu lại, đáng chú ý chẳng hạn những bài viết phong phú, sắc sảo và sinh động, cả cập nhật ngay đối với hôm nay nữa của Phan Khôi, hay những tác phẩm uyên thâm, thống thiết, và lạ thế, cũng cập nhật không kém của Phạm Quỳnh - một tập tiểu luận dịch từ nguyên bản tiếng Pháp của ông đang gây chú ý rộng rãi trong dư luận.

Một nhân vật đặc biệt khác cũng đang thu hút sự quan tâm của nhiều người nhiều giới: Nguyễn Văn Vĩnh. Theo chỗ tôi được biết một bộ phim tài liệu quý về cuộc đời và sự nghiệp của ông đang được chuẩn bị. Tôi có được xem một phần bản thảo phim ấy.

Mở đầu là một người cháu gái của Nguyễn Văn Vĩnh, nay chắc cũng đã quá tuổi tứ tuần, kể chuyện cách đây mấy mươi năm một hôm đi học về tủi thân và khóc ròng, lại gặp cơn mưa lớn, phải vào trú dưới mái hiên một nhà bên đường. Bà cụ chủ nhà thấy có cô học trò đứng dưới hiên nhà mình mà khóc, liền ra hỏi:

“Sao cháu khóc nhiều thế?”.

Cô bé sụt sùi:

“Sáng nay ở lớp cô giáo dạy rằng ông nội cháu là một tên đại Việt gian, tay sai, bồi bút cho thực dân Pháp, cháu buồn, cháu nhục quá…”.

“Vậy ông nội cháu là ai?”.

“Dạ, ông cháu là Nguyễn Văn Vĩnh ạ...”.

Bà cụ ôm chầm lấy cô bé:

“Trời ơi, cháu là cháu nội Tân Nam Tử ư? Ôi, cháu vào ngay đây với bà, cháu không việc gì phải khóc cả, Tân Nam Tử Nguyễn Văn Vĩnh là một người rất vĩ đại, mặc ai nói gì thì nói, cháu phải rất tự hào. Cháu có một người ông từng có công lớn lắm với đất nước này... Rồi xã hội cũng sẽ phải công bằng thôi, cháu ạ...”.

Quả thật ngày nay cuộc sống đã bắt đầu trả lại sự công bằng - muộn mằn và chậm chạp - cho nhân vật cao lớn đến kỳ lạ ấy của đất nước: một nhà văn, một nhà báo, một dịch giả, một nhà văn hóa lớn, hầu như lĩnh vực nào cũng là người khai phá và luôn ở hàng đầu, người sáng lập tờ báo chữ quốc ngữ đầu tiên ở miền Bắc, ông tổ của ngành in hiện đại ở nước ta, người đầu tiên thiết lập nền sân khấu hiện đại ở Việt Nam, và bằng những bài thơ dịch La Fontaine tuyệt vời, cũng là người đầu tiên phá vỡ thể thơ truyền thống, giải phóng thơ Việt ra khỏi khuôn khổ cổ cứng nhắc hàng nghìn năm, mở đường cho thơ mới ra đời, hiện đại hoá thơ Việt, cũng lại là một trong những người tiên phong sáng lập Đông Kinh Nghĩa Thục: một nhà khai sáng chói lọi của đất nước đầu Thế Kỷ XX…

Cuộc sống cũng đã và đang dần dần trả lại công bằng cho một số tên tuổi lớn từng bị soi rọi nhiều chục năm dưới những nguồn sáng chẳng lấy gì làm đẹp đẽ, như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, và không ít người khác nữa, những tài năng xuất chúng, những nhà khai sáng lớn trong một thời kỳ chuyển động lịch sử quan trọng.

Một số nhân vật khác, ít gay cấn hơn, nhưng cũng từng bị hiểu sai, công khai hay lập lờ, bị gán cho những danh hiệu tuỳ tiện và quy chụp, hoặc bị quên lãng, đẩy xuống những hàng khuất lấp bất công, những Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Lương Văn Can, Đào Nguyên Phổ, Trương Gia Mô, Nguyễn Trọng Lợi, Huỳnh Tá Bang, Nguyễn Bá Trác..., nay người ít người nhiều, người sớm người muộn, người đã tương đối rõ ràng người còn phải tiếp tục làm sáng rõ, đã dần dần được đánh giá lại theo đúng tầm cỡ, vị trí và cống hiến của họ trong lịch sử cận đại và hiện đại...

Thời gian đang làm công việc lâu dài mà sòng phẳng của nó, không thế lực, cường quyền nào ngăn chặn được, bất chấp những tiếng la ó ngày càng lạc lõng của ai đó. Đời sống tinh thần, văn hóa, cả chính trị của đất nước vì thế ngày mỗi giàu thêm lên. Và được thụ hưởng là tất cả chúng ta, là nhân dân. Có lẽ còn hơn thế nữa, đây không chỉ là một sự khôi phục công bằng lịch sử lành mạnh. Còn có thể là một đóng góp không hề nhỏ cho chính sự phát triển nhiều triển vọng mà cũng đầy thách thức hôm nay. Bởi những thế hệ quá khứ không chỉ đã đóng trọn vai trò hoá ra là hết sức to lớn của họ, họ còn có thể tham gia trực tiếp vào cuộc đi tới hôm nay của chúng ta, bằng những bài học còn nóng hổi, nếu ta biết từ họ mà đối chiếu và ngẫm nghĩ, từ đó tính lại bao nhiêu công việc của chúng ta bây giờ.

Riêng tôi, từ ít lâu nay, tôi vẫn thường trở đi trở lại với một câu hỏi: Tại sao hồi đầu TK.XX chúng ta lại có được một thế hệ những người khổng lồ như vậy, trong văn hóa, tức là ở cái nền tảng cơ bản nhất của tất cả, mà hình như ngày nay chúng ta lại không có, không còn có được? Những điều kiện lịch sử nào và những nỗ lực cá nhân nào đã tạo nên “thế hệ vàng” ấy của văn hóa Việt Nam vào đúng thời điểm vô cùng quan trọng mà chắc rồi chúng ta còn phải nhiều lần trở lại công phu tìm hiểu, nghiên cứu?

Trong nhiều yếu tố, nhiều nguyên nhân, phải chăng có một nguyên nhân hết sức quan trọng, thậm chí quyết định này: thế hệ ấy có một lợi thế đặc biệt, họ là một thế hệ đa văn hóa. Đặc điểm quan trọng nhất của họ là từ Hán học chuyển sang Tây học. Một nền Hán học rất uyên thâm, mà trước nay ta quá dễ hời hợt coi thường, khinh miệt, chế giễu, cả lên án nữa. Về điều này, lâu nay tôi nghĩ có hơi khác một chút.

Tôi đã thử đặt câu hỏi: nền đại học nào đã tạo nên những Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Đào Nguyên Phổ, Ngô Đức Kế, Trần Cao Vân, Đặng Nguyên Cẩn…, cả những Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Đình Chiểu…?

Chính là nền đại học “phong kiến” vào một thời kỳ mạt vận nhất của chế độ ấy tức nhà Nguyễn.

Vậy hóa ra nền đại học ấy không hề tầm thường chút nào, ít ra cũng không tầm thường hơn nền đại học ta đang có hiện nay. Họ học gì? Tứ Thư, Ngũ Kinh. Và Tứ Thư, Ngũ Kinh là gì? Đấy là trí tuệ cao nhất, tập trung, cô đúc nhất của thời trung đại phương Đông. Họ không học tràn lan như chúng ta bây giờ, vơ cho kỳ hết đủ thứ, bỏ cái gì cũng sợ thiếu, đến nỗi học trò lớp một phổ thông đã phải vẹo cả cột sống với chiếc cặp sách khốn khổ của bộ Giáo dục trên lưng! Họ chỉ học rất ít, chắt lọc lấy cái cơ bản nhất mà học, học cho đến nhuần nhuyễn, để rồi từ cái cơ bản đó mà đủ sức tự mình vận dụng hành xử trong mọi tình huống suốt đời.

Có lẽ cũng chính vì vậy mà có một điểm rất đáng chú ý: chính những người giỏi nhất trong số họ, những nhà Hán học uyên thâm nhất lại là những người được nền học vấn ấy tạo nên trí tuệ và ý chí độc lập hết sức mạnh mẽ để dám và biết cách từ bỏ thầy, từ bỏ sách, đạp đổ cái cũ, chống lại chính cái đã học, đi trên cái mới, tự giải phóng cho trí tuệ của mình và cho đất nước, dân tộc. Nghĩa là họ học để trở thành người độc lập, tự chủ, chứ không phải thành người nô lệ, nô lệ cho những giáo điều bất khả xâm phạm, như ta từng lầm tưởng. Người nổi bật nhất trong số đó và xu hướng đó là Phan Châu Trinh, mà Huỳnh Thúc Kháng đã đánh giá xác đáng là “nhà cách mạng đầu tiên của Việt Nam”. Vậy thì, nghịch lý thay, nền giáo dục đó rất hiện đại: nó tạo nên không phải những đầu óc được nhồi sọ u tối mà là những nhân cách độc lập, tất nhiên, như bao giờ cũng vậy, ở bộ phận ưu tú nhất của nó…

Những con người đó lại gặp một chuyển đổi thời đại hết sức quan trọng, khi Việt Nam, và cả phương Đông đối mặt với phương Tây, khi diễn ra sự gặp gỡ và va chạm quyết định giữa hai nền văn hóa, văn minh lớn của nhân loại. Những phần tử sáng suốt nhất trong Hán học đã chuyển sang Tây học, dũng cảm, quyết liệt. Có điều thoạt thấy rất lạ: chính thế hệ Tây học đầu tiên đó lại là những nhà Tây học rất sâu.

Vì sao?

Phải chăng chính là vì họ xuất phát từ Hán học cũng rất sâu. Đây là sự gặp gỡ giữa hai đỉnh cao, từ đỉnh cao này họ nhìn ngắm đỉnh cao kia, từ đỉnh cao này họ đến với đỉnh cao kia. Trong họ là sự kết nối hai nền văn hóa lớn nhất của nhân loại, vấn đề của họ luôn là vấn đề của sự kết nối đó, những khả năng, những khó khăn, thách thức, những lời giải cố tìm cho sự kết nối đó.

Hãy đọc kỹ lại, chẳng hạn Phan Khôi. Thật đáng kinh ngạc vì tri thức bác học cả Đông lẫn Tây của ông, hầu như không có lĩnh vực nào bị ông bỏ qua, không vấn đề lớn nhỏ nào không được ông quan tâm, đề cập và dù chỉ một bài báo nhỏ của ông cũng là một công trình nghiên cứu công phu, trung thực, thậm chí khá cơ bản. Ông cũng là người đầu tiên dịch Kinh Thánh. Vì sao ông bỏ công sức lớn để làm công việc khó khăn và thoạt trông rất lạ đó, dầu ông không hề là người Công giáo? Có thể, một là ông dịch để học, hai là, và điều này còn quan trọng hơn, ông hiểu rất sâu rằng đấy là một tác phẩm lớn, cội nguồn của văn hóa phương Tây. Ông muốn tìm đến văn hóa phương Tây ở tận cội nguồn của nó…

Tôi cũng thường chú ý đến Huỳnh Thúc Kháng, một nhân vật có lẽ chúng ta cũng chưa để tâm nghiên cứu đầy đủ và đánh giá thật xác đáng. Thường được nhắc đến giai thoại về việc Huỳnh Thúc Kháng học tiếng Pháp: ông học trong nhà tù Côn Đảo, bằng cách học thuộc lòng từ đầu đến cuối toàn bộ cuốn từ điển Larousse!

Có điều đáng ngạc nhiên: văn quốc ngữ của Huỳnh Thúc Kháng rất hay, tôi đọc đi đọc lại ông và cuối cùng nhận ra điều này: hoá ra đấy là lối viết văn quốc ngữ mà chỉ có những người thông thạo Hán học chuyển sang Tây học mới có được; một lối tư duy khúc chiết, chặt chẽ, sáng sủa của lý tính phương Tây mà họ quyết chiếm lĩnh, kết hợp với một lối suy tư và diễn đạt súc tích đến không thừa một chữ, nghĩa ẩn trong chữ, sau chữ, giữa các dòng của người phương Đông. Nói về tính cách độc lập vô cùng mạnh mẽ của Phan Châu Trinh và việc Phan Châu Trinh sáng suốt tìm ra con đường mới từ Tân thư chẳng hạn, Huỳnh Thúc Kháng viết, cực gọn mà sắc, lại đầy hình ảnh:

“Tiên sinh đọc sách có con mắt riêng”.

Và đây là tuyên ngôn dõng dạc của ông trên số báo Tiếng Dân đầu tiên trong điều kiện làm báo dưới chế độ khắc nghiệt của thực dân Pháp: “Nếu không có quyền nói thì ít ra cũng giữ được cái quyền không nói những điều người ta buộc nói”. Khí tiết và văn phong, cô lại đến đậm đặc và sắc tựa gươm chỉ trong một dòng!...

Cũng không thể không nhắc đến Phạm Quỳnh. Sau nhiều tác phẩm viết bằng tiếng Việt, cuốn tiểu luận viết bằng tiếng Pháp từ năm 1922 đến năm 1932 của ông vừa được dịch và in là một hiện tượng xuất bản năm qua. Mối ưu tư thống thiết của ông cố đi trên một con đường cho dân tộc trong cuộc va chạm dữ dội và chấn động giữa hai thế giới Đông Tây, lạ thế, đọc cứ như đang nghe ông nói về chính những vấn đề của hôm nay. Sức nghĩ của con người có thể vượt thời gian đến thế, thật khó ngờ!...

Và về Nguyễn Văn Vĩnh, chỉ xin nói một khía cạnh “nhỏ” này: sự nghiệp dịch thuật, cũng như tất cả các hoạt động sôi nổi của ông trong mọi lĩnh vực khác, đều có tính tiên phong và ngay từ đầu đã rất đặc sắc Nguyễn Văn Vĩnh có một quan niệm thâm thuý về dịch thuật. Ông dịch là để đem về cho đồng bào mình những giá trị văn hóa lớn của nhân loại, điều vô cùng cần thiết, thậm chí khẩn cấp trong công cuộc khai hoá dân tộc mà ông thống thiết theo đuổi suốt đời. Nhưng không chỉ có thế: ông chủ trương đẩy mạnh dịch thuật một mặt là để chứng minh khả năng giàu có của tiếng Việt đồng thời cũng còn là để góp phần hiện đại hoá ngôn ngữ dân tộc, làm cho ngôn ngữ ấy - và qua đó, tất nhiên, cả người Việt, dân tộc Việt - được tăng cường thêm các khả năng chiếm lĩnh những thành quả văn hóa, văn minh cao nhất và cập nhật nhất của nhân loại. Hiện đại biết bao quan niệm và tư duy đó, và tha thiết, sâu đậm biết bao tấm lòng yêu nước của thế hệ dân tộc ta từng có được thời bấy giờ…

Quả thực, hồi đầu TK,XX, chúng ta từng có được một thế hệ vàng. Quả thật đấy là thời kỳ của những người khổng lồ. Để có được ngày hôm nay của đất nước, không phải chỉ có cách mạng và chiến tranh. Hoặc nói cho đúng hơn, chính những con người như vậy, vào một thời điểm chuyển động quan trọng của lịch sử, đã góp phần không hề nhỏ chuẩn bị tinh thần, trí tuệ, cả chí khí nữa cho dân tộc để có được cách mạng thành công và chiến tranh giải phóng thắng lợi.

Thế hệ ưu tú đó đã đi qua. Cần tiếp tục sự minh định công bằng của lịch sử đối với họ. Nhưng điều còn quan trọng hơn, cần tìm biết vì sao thời ấy đất nước khó khăn hơn bây giờ biết bao nhiêu lần, mà lại xuất hiện được thế hệ đặc sắc ấy.

Và bây giờ thì chưa có lại được.

Vì sao? Có quy luật gì ở đây chăng?

Tôi tin rằng có. Có một quy luật: nhất thiết phải đa văn hóa. Phải tìm mọi cách để, như cha ông ta cách đây đúng một thế kỷ, làm chủ được những đỉnh cao của văn hóa cả phương Đông lẫn phương Tây. Không thể, như do cạn cợt và thiển cận suốt một thời gian khá dài, chúng ta đã làm thế nào đó để mà cuối cùng đánh mất cả Đông lẫn Tây, Đông không còn mà Tây cũng vứt đi hết, Đông không ra Đông - Tây không ra Tây. Chỉ còn trơ khấc cái được gọi là “dân tộc” kỳ thực là tước đi hết của dân tộc tất cả những tiếp thụ phong phú và cần thiết cho chính cái “dân tộc” đó là một dân tộc giàu có vì liên thông với những đỉnh cao nhất của tinh thần và trí tuệ nhân loại.

Cải cách giáo dục, cả cải cách xã hội nữa, phải được đặt trên nền tảng của một tầm nhìn lớn, rất xa và rất rộng, những lạ thay và kỳ diệu thay, những người khổng lồ đầu TK.XX của chúng ta đã thật anh minh nhìn ra và thiết kế cho đất nước này.

Nguyên Ngọc

 

 

 

Trong nhiều yếu tố, nhiều nguyên nhân, phải chăng có một nguyên nhân hết sức quan trọng, thậm chí quyết định này: thế hệ ấy có một lợi thế đặc biệt, họ là một thế hệ đa văn hóa. Đặc điểm quan trọng nhất của họ là từ Hán học chuyển sang Tây học. Một nền Hán học rất uyên thâm, mà trước nay ta quá dễ hời hợt coi thường, khinh miệt, chế giễu, cả lên án nữa. Về điều này, lâu nay tôi nghĩ có hơi khác một chút.

Tôi đã thử đặt câu hỏi: nền đại học nào đã tạo nên những Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Đào Nguyên Phổ, Ngô Đức Kế, Trần Cao Vân, Đặng Nguyên Cẩn…, cả những Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Đình Chiểu…?

Chính là nền đại học “phong kiến” vào một thời kỳ mạt vận nhất của chế độ ấy tức nhà Nguyễn.

Vậy hóa ra nền đại học ấy không hề tầm thường chút nào, ít ra cũng không tầm thường hơn nền đại học ta đang có hiện nay. Họ học gì? Tứ Thư, Ngũ Kinh. Và Tứ Thư, Ngũ Kinh là gì? Đấy là trí tuệ cao nhất, tập trung, cô đúc nhất của thời trung đại phương Đông. Họ không học tràn lan như chúng ta bây giờ, vơ cho kỳ hết đủ thứ, bỏ cái gì cũng sợ thiếu, đến nỗi học trò lớp một phổ thông đã phải vẹo cả cột sống với chiếc cặp sách khốn khổ của bộ Giáo dục trên lưng! Họ chỉ học rất ít, chắt lọc lấy cái cơ bản nhất mà học, học cho đến nhuần nhuyễn, để rồi từ cái cơ bản đó mà đủ sức tự mình vận dụng hành xử trong mọi tình huống suốt đời.

Có lẽ cũng chính vì vậy mà có một điểm rất đáng chú ý: chính những người giỏi nhất trong số họ, những nhà Hán học uyên thâm nhất lại là những người được nền học vấn ấy tạo nên trí tuệ và ý chí độc lập hết sức mạnh mẽ để dám và biết cách từ bỏ thầy, từ bỏ sách, đạp đổ cái cũ, chống lại chính cái đã học, đi trên cái mới, tự giải phóng cho trí tuệ của mình và cho đất nước, dân tộc. Nghĩa là họ học để trở thành người độc lập, tự chủ, chứ không phải thành người nô lệ, nô lệ cho những giáo điều bất khả xâm phạm, như ta từng lầm tưởng. Người nổi bật nhất trong số đó và xu hướng đó là Phan Châu Trinh, mà Huỳnh Thúc Kháng đã đánh giá xác đáng là “nhà cách mạng đầu tiên của Việt Nam”. Vậy thì, nghịch lý thay, nền giáo dục đó rất hiện đại: nó tạo nên không phải những đầu óc được nhồi sọ u tối mà là những nhân cách độc lập, tất nhiên, như bao giờ cũng vậy, ở bộ phận ưu tú nhất của nó…

Những con người đó lại gặp một chuyển đổi thời đại hết sức quan trọng, khi Việt Nam, và cả phương Đông đối mặt với phương Tây, khi diễn ra sự gặp gỡ và va chạm quyết định giữa hai nền văn hóa, văn minh lớn của nhân loại. Những phần tử sáng suốt nhất trong Hán học đã chuyển sang Tây học, dũng cảm, quyết liệt. Có điều thoạt thấy rất lạ: chính thế hệ Tây học đầu tiên đó lại là những nhà Tây học rất sâu.

Vì sao?

Phải chăng chính là vì họ xuất phát từ Hán học cũng rất sâu. Đây là sự gặp gỡ giữa hai đỉnh cao, từ đỉnh cao này họ nhìn ngắm đỉnh cao kia, từ đỉnh cao này họ đến với đỉnh cao kia. Trong họ là sự kết nối hai nền văn hóa lớn nhất của nhân loại, vấn đề của họ luôn là vấn đề của sự kết nối đó, những khả năng, những khó khăn, thách thức, những lời giải cố tìm cho sự kết nối đó.

Hãy đọc kỹ lại, chẳng hạn Phan Khôi. Thật đáng kinh ngạc vì tri thức bác học cả Đông lẫn Tây của ông, hầu như không có lĩnh vực nào bị ông bỏ qua, không vấn đề lớn nhỏ nào không được ông quan tâm, đề cập và dù chỉ một bài báo nhỏ của ông cũng là một công trình nghiên cứu công phu, trung thực, thậm chí khá cơ bản. Ông cũng là người đầu tiên dịch Kinh Thánh. Vì sao ông bỏ công sức lớn để làm công việc khó khăn và thoạt trông rất lạ đó, dầu ông không hề là người Công giáo? Có thể, một là ông dịch để học, hai là, và điều này còn quan trọng hơn, ông hiểu rất sâu rằng đấy là một tác phẩm lớn, cội nguồn của văn hóa phương Tây. Ông muốn tìm đến văn hóa phương Tây ở tận cội nguồn của nó…

Tôi cũng thường chú ý đến Huỳnh Thúc Kháng, một nhân vật có lẽ chúng ta cũng chưa để tâm nghiên cứu đầy đủ và đánh giá thật xác đáng. Thường được nhắc đến giai thoại về việc Huỳnh Thúc Kháng học tiếng Pháp: ông học trong nhà tù Côn Đảo, bằng cách học thuộc lòng từ đầu đến cuối toàn bộ cuốn từ điển Larousse!

Có điều đáng ngạc nhiên: văn quốc ngữ của Huỳnh Thúc Kháng rất hay, tôi đọc đi đọc lại ông và cuối cùng nhận ra điều này: hoá ra đấy là lối viết văn quốc ngữ mà chỉ có những người thông thạo Hán học chuyển sang Tây học mới có được; một lối tư duy khúc chiết, chặt chẽ, sáng sủa của lý tính phương Tây mà họ quyết chiếm lĩnh, kết hợp với một lối suy tư và diễn đạt súc tích đến không thừa một chữ, nghĩa ẩn trong chữ, sau chữ, giữa các dòng của người phương Đông. Nói về tính cách độc lập vô cùng mạnh mẽ của Phan Châu Trinh và việc Phan Châu Trinh sáng suốt tìm ra con đường mới từ Tân thư chẳng hạn, Huỳnh Thúc Kháng viết, cực gọn mà sắc, lại đầy hình ảnh:

“Tiên sinh đọc sách có con mắt riêng”.

Và đây là tuyên ngôn dõng dạc của ông trên số báo Tiếng Dân đầu tiên trong điều kiện làm báo dưới chế độ khắc nghiệt của thực dân Pháp: “Nếu không có quyền nói thì ít ra cũng giữ được cái quyền không nói những điều người ta buộc nói”. Khí tiết và văn phong, cô lại đến đậm đặc và sắc tựa gươm chỉ trong một dòng!...

Cũng không thể không nhắc đến Phạm Quỳnh. Sau nhiều tác phẩm viết bằng tiếng Việt, cuốn tiểu luận viết bằng tiếng Pháp từ năm 1922 đến năm 1932 của ông vừa được dịch và in là một hiện tượng xuất bản năm qua. Mối ưu tư thống thiết của ông cố đi trên một con đường cho dân tộc trong cuộc va chạm dữ dội và chấn động giữa hai thế giới Đông Tây, lạ thế, đọc cứ như đang nghe ông nói về chính những vấn đề của hôm nay. Sức nghĩ của con người có thể vượt thời gian đến thế, thật khó ngờ!...

Và về Nguyễn Văn Vĩnh, chỉ xin nói một khía cạnh “nhỏ” này: sự nghiệp dịch thuật, cũng như tất cả các hoạt động sôi nổi của ông trong mọi lĩnh vực khác, đều có tính tiên phong và ngay từ đầu đã rất đặc sắc Nguyễn Văn Vĩnh có một quan niệm thâm thuý về dịch thuật. Ông dịch là để đem về cho đồng bào mình những giá trị văn hóa lớn của nhân loại, điều vô cùng cần thiết, thậm chí khẩn cấp trong công cuộc khai hoá dân tộc mà ông thống thiết theo đuổi suốt đời. Nhưng không chỉ có thế: ông chủ trương đẩy mạnh dịch thuật một mặt là để chứng minh khả năng giàu có của tiếng Việt đồng thời cũng còn là để góp phần hiện đại hoá ngôn ngữ dân tộc, làm cho ngôn ngữ ấy - và qua đó, tất nhiên, cả người Việt, dân tộc Việt - được tăng cường thêm các khả năng chiếm lĩnh những thành quả văn hóa, văn minh cao nhất và cập nhật nhất của nhân loại. Hiện đại biết bao quan niệm và tư duy đó, và tha thiết, sâu đậm biết bao tấm lòng yêu nước của thế hệ dân tộc ta từng có được thời bấy giờ…

Quả thực, hồi đầu TK,XX, chúng ta từng có được một thế hệ vàng. Quả thật đấy là thời kỳ của những người khổng lồ. Để có được ngày hôm nay của đất nước, không phải chỉ có cách mạng và chiến tranh. Hoặc nói cho đúng hơn, chính những con người như vậy, vào một thời điểm chuyển động quan trọng của lịch sử, đã góp phần không hề nhỏ chuẩn bị tinh thần, trí tuệ, cả chí khí nữa cho dân tộc để có được cách mạng thành công và chiến tranh giải phóng thắng lợi.

Thế hệ ưu tú đó đã đi qua. Cần tiếp tục sự minh định công bằng của lịch sử đối với họ. Nhưng điều còn quan trọng hơn, cần tìm biết vì sao thời ấy đất nước khó khăn hơn bây giờ biết bao nhiêu lần, mà lại xuất hiện được thế hệ đặc sắc ấy.

Và bây giờ thì chưa có lại được.

Vì sao? Có quy luật gì ở đây chăng?

Tôi tin rằng có. Có một quy luật: nhất thiết phải đa văn hóa. Phải tìm mọi cách để, như cha ông ta cách đây đúng một thế kỷ, làm chủ được những đỉnh cao của văn hóa cả phương Đông lẫn phương Tây. Không thể, như do cạn cợt và thiển cận suốt một thời gian khá dài, chúng ta đã làm thế nào đó để mà cuối cùng đánh mất cả Đông lẫn Tây, Đông không còn mà Tây cũng vứt đi hết, Đông không ra Đông - Tây không ra Tây. Chỉ còn trơ khấc cái được gọi là “dân tộc” kỳ thực là tước đi hết của dân tộc tất cả những tiếp thụ phong phú và cần thiết cho chính cái “dân tộc” đó là một dân tộc giàu có vì liên thông với những đỉnh cao nhất của tinh thần và trí tuệ nhân loại.

Cải cách giáo dục, cả cải cách xã hội nữa, phải được đặt trên nền tảng của một tầm nhìn lớn, rất xa và rất rộng, những lạ thay và kỳ diệu thay, những người khổng lồ đầu TK.XX của chúng ta đã thật anh minh nhìn ra và thiết kế cho đất nước này.

Nguyên Ngọc