Bài Thứ Tám
KHÔNG CÒN LÀ MỐI NGUY CƠ.
Bằng Phong Đặng văn Âu
Lời mở đầu : Nhận thấy Họa Diệt Chủng nòi giống Việt Nam không còn là nguy cơ, mà nó đang trên đà hiện thực, người viết xin dẫn chứng những sự kiện để giải thích tại sao mình quan niệm như thế. Người viết dành quyền phản biện cho quý vị thức giả. Tác giả sẽ viết làm nhiều kỳ, kính mong quý độc giả quan tâm vui lòng kiên nhẫn theo dõi.
*******************************************************
Từ khi còn là một sĩ quan trẻ, cấp bậc Trung Úy, nhưng tôi đã sớm nhận thức về ý nghĩa cuộc chiến tranh Quốc – Cộng. Chính vì thế mà trong cuộc họp Hành Quân Cầu Không Vận tiếp tế gạo cho Ban Mê Thuột, tôi đã đứng lên bày tỏ ý kiến với ông Trung tá Không Đoàn trưởng: “Tại sao không lấy tên của một vị anh hùng trong lịch sử để đặt tên chiến dịch, mà lại đặt tên cho chiến dịch là “Kỳ-Duyên-Mai”?
Tôi có bà Mẹ đã dạy đứa bé mồ côi cha giống như bà Mẹ của nhà thơ Phùng Quán dạy con bà cái tính thẳng thắn, bộc trực “Yêu ai cứ bảo là yêu, ghét ai cứ bảo là ghét …”. Sau hôm tham gia chiến dịch về, tôi được lệnh lên trình diện ông Tư Lệnh Nguyễn Cao Kỳ. Dọc đường từ Phi đoàn đến Văn phòng Tư Lệnh, tôi thầm nghĩ như để tự trấn an: “Nếu bị phạt đuổi sang Bộ Binh là cùng! Ở đâu cũng đánh giặc, việc gì phải lo?” Nhưng sự thể khác với dự đoán của tôi. Sau khi tôi đứng nghiêm chào kính, xưng danh tánh, cấp bậc, số quân xong, ông Tư Lệnh rời ghế ngồi đứng lên, ra lệnh tôi bỏ tay xuống và vừa gật gù, vừa nói: “Được lắm! được lắm! Xứng đáng là học trò trường Chu văn An! Thôi! Trở về Phi đoàn lo bay bổng cho đàng hoàng”. Tôi nói lí nhí lời cám ơn ông Tư Lệnh, đưa tay lên chào, quay đàng sau 180 độ theo lối nhà binh, mà trong lòng cảm thấy hân hoan một cách kỳ lạ! Từ đó, tôi sinh lòng ngưỡng mộ ông Tư Lệnh, vì ông hiểu tâm tính cương trực của mình là noi theo tấm gương của Thầy Chu văn An, mặc dầu tôi là học sinh Quốc Học Huế. Càng theo dõi cuộc đời binh nghiệp và chính trị của ông Tư Lệnh, tôi càng nhận thấy Tướng Kỳ xứng đáng là người học trò của Thầy Chu văn An hơn cả.
Là lính tráng, tôi có thể ngồi bệt xuống đất nhậu nhẹt với anh em thuộc cấp, nói chuyện tiếu lâm hoặc tán dóc. Nhưng khi bắt tay vào làm một việc quan trọng, tôi rất nghiêm chỉnh, chu đáo. Dù đứng trước các bậc đàn anh vào hạng bậc thầy hay trước một ông Tướng, tôi không ngần ngại nói lên ý nghĩ của riêng mình một cách xây dựng. Hôm nay tôi tường thuật lại với bạn đọc nào chưa từng nghe tôi kể:
Năm 1988, đảng Đại Việt có cuộc họp thống nhất tại nhà anh Nguyễn Quan Vĩnh – người bạn cùng khóa Không Quân với tôi – tại Thành phố San Jose, California. Thành phần tham dự gồm có: Cụ Cung Đình Quỳ – Cựu Bộ trưởng Canh Nông trong Chính phủ Trần Trọng Kim – người cao niên nhất (92 tuổi) làm Chủ tọa phiên họp, bác sĩ Đặng văn Sung, bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn, Đại sứ Bùi Diễm, Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn văn Canh, anh Đặng văn Đệ, anh Đào Nhật Tiến, anh Lê Tấn Trạng, anh Nguyễn văn Ánh và tôi. Chỉ có anh Trạng và anh Ánh là kém tuổi đời và tuổi đảng so với tôi.
Sau phần nghi thức khai mạc trước bàn thờ Tổ Quốc với di ảnh của Cố Đảng trưởng Trương Tử Anh, hát Quốc ca VNCH, hát Đảng ca (Việt Nam Minh Châu Trời Đông) và phút mặc niệm xong, tất cả mọi người an vị tại chiếc bàn dài. Với tư cách là người cao niên nhất, Cụ Cung Đình Quỳ đứng lên và dõng dạc, nghiêm khắc quở trách các lãnh tụ đảng mà tôi có cảm tưởng như đó là lời của đồng chí Đảng trưởng Trương Tử Anh vọng về. Cuối cùng, Cụ tuyên bố:
– Kể từ nay, tôi muốn các đồng chí phải cùng nhau một lòng một dạ đoàn kết phất Ngọn Cờ Đại Việt để giải phóng quê hương Việt Nam.
Tiếp theo đó, các anh lớn bày tỏ niềm ân hận vì đã chia rẽ nhau trong quá khứ. Các anh bắt tay nhau, nói lời xin lỗi. Mắt anh nào anh nấy đều hoe đỏ, cam kết giữ lời thề năm xưa. Thấy những đồng chí niên trưởng tuy đã già, nhưng vẫn còn tha thiết với quê hương, tôi cảm động vô cùng. Họ nói với nhau những lời ân hận rất chân tình, trong lòng tôi cũng cảm thấy rưng rưng.
Đến lượt được phát biểu, tôi nói:
– Thưa các đồng chí, cho phép đàn em dùng hai chữ “Anh Em” để xưng hô, thay vì hai chữ “đồng chí”. Vừa rồi, Cụ Chủ tọa Cung Đình Quỳ kêu gọi các anh đoàn kết với nhau phất ngọn cờ Đại Việt để giải phóng nhân dân Việt Nam thoát ách cộng sản là em không đồng ý.
Nói tới đó, tôi ngưng. Các anh lớn đều nhìn về phía tôi bằng cặp mắt ngạc nhiên. Tôi nói tiếp:
– Tại sao đảng Đại Việt chúng ta không vận động toàn dân để cùng nhau phất Ngọn Cờ Dân Tộc? Chỉ yêu cầu phất Ngọn Cờ Đại Việt là còn biểu hiện cái tinh thần cục bộ, phe phái, thì làm thế nào có thể giải phóng dân tộc? Đảng trưởng Trương Tử Anh lập thuyết “Dân Tộc Sinh Tồn” là để chống Thực dân Pháp, nhưng quan trọng hơn hết là để chống chủ nghĩa cộng sản phi dân tộc. Em xin nhấn mạnh: Đảng trưởng Trương Tử Anh đề ra chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn là có chủ đích đoàn kết toàn bộ dân tộc, thì mới chống nổi Thực dân và Cộng sản. Sau năm 1954, chế độ Thực dân Pháp đã cáo chung, người Mỹ nhảy vào giúp ta vũ khí, tài chánh, tại sao các anh không đoàn kết với nhau, hợp tác với Chính quyền Ngô Đình Diệm để trả mối thù cho Đảng trưởng bị Cộng sản xử tử hình? Lớp đảng viên trẻ chúng em đứng trước sự chia rẽ của đàn anh, bị lâm vào tình trạng giống như những đứa con có cha mẹ ly dị nhau, mặc dầu đều tôn thờ lý tưởng dân tộc sinh tồn, nhưng đều e dè đối với nhau. Nếu chúng em đứng về phía anh Ký, thì anh Huy buồn. Hoặc ngược lại. Tại sao trong Tân Đại Việt của anh Huy đa số đảng viên là người Miền Nam? Tại sao trong Đại Việt Cách Mạng của anh Ký đa số đảng viên là người Miền Trung và người Miền Bắc? Các anh có thấy điều đó là sai? Xin anh Hoàn, anh Ký xác nhận cho biết có phải hai anh đã đứng ra nhận lời tuyên thệ của ông Nguyễn văn Thiệu gia nhập Đại Việt sau biến cố Tháng 11 năm 1963?”.
Cả hai anh đều xác nhận đúng. Tôi tiếp tục:
– Theo điều lệ Đảng, nếu đảng viên phản đảng thì sẽ bị khai trừ ra khỏi đảng. Tại sao ông Nguyễn văn Thiệu bỏ đảng, ra lập đảng Dân Chủ mà các anh không có phản ứng? Theo em, sự im lặng của các anh trước sự tham nhũng, trước sự mua quan bán chức của chính quyền Tổng thống Nguyễn văn Thiệu và trước vụ buôn lậu ầm ĩ Còi Hụ Long An, đã khiến cho đảng Đại Việt mất uy tín và mất tư thế lãnh đạo quần chúng. Người dân thấp cổ bé miệng không dám kêu ca, nhưng chúng ta là một đảng có tên tuổi, tại sao các anh giữ im lặng?
Ra Hải ngoại, Phó Đề đốc Hải Quân Hoàng Cơ Minh lập Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam (Mặt Trận) hoàn toàn phi nguyên tắc đấu tranh bạo lực. Sự lừa bịp của Mặt Trận đã rơi mặt nạ, anh Huy và anh Ký đã biết ông Hoàng Cơ Minh đã chết trên đất Thái từ năm 1987. Tại sao hai anh là người đang lãnh đạo hai tổ chức đấu tranh đều giữ im lặng, vẫn để yên cho bọn Kháng Chiến Bịp Bợm làm mưa làm gió? Nếu sau cuộc thống nhất Đại Việt hôm nay mà các anh vẫn giữ im lặng, thì em xin quả quyết rằng Đảng ta chẳng có một chút uy tín nào đối với quần chúng như trước năm 1975! Thà đừng kết hợp nhau, Đảng cứ lẳng lặng lùi dần vào bóng tối, để mặc cho bọn đầu cơ chính trị tung hoành, để đỡ mang tiếng với lịch sử! Em nghĩ, nếu chúng ta còn quyết tâm chiến đấu chống Cộng sản, thì trước hết chúng ta phải triệt tiêu những phần tử làm mất Chính nghĩa Dân Tộc và bọn giả hình mượn danh nghĩa Chống Cộng để mua danh, để thủ lợi”.
Sau lời phát biểu của tôi, các anh lớn quá ngỡ ngàng, vì không ngờ một thằng đàn em dám nói một lời mạnh bạo như thế. Không khí phòng họp trở nên căng thẳng một cách khó chịu, vì làm sao các anh có thể trả lời tâm tư của thằng đàn em mà trong lòng đã ấm ức lâu ngày? Vừa lúc đó, anh chủ nhà Nguyễn Quan Vĩnh mời mọi người ngừng buổi họp để ăn trưa. Bữa ấy, bầu trời miền Bắc California rất đẹp, thức ăn và thức uống đều dọn sẵn trên bàn đặt ở ngoài sân. Bác sĩ Đặng văn Sung vẫy tôi lại, nói:
– Chú mày vẫn cái thói nhà binh không bỏ. Những gì chú nói trong buổi họp, làm cho anh Ký, anh Huy buồn lắm đấy! Hãy đến xin lỗi các anh ấy đi!
Gia pháp của hai nhà họ Đặng Văn và Cao Xuân rất nghiêm, làm em không được phép cãi lời anh. Ngay cả ông Cao Xuân Vỹ lớn hơn tôi 20 tuổi, nhưng lúc nào cũng xưng em với tôi. Huống chi, bác sĩ Sung sinh năm 1916 hơn tôi đến hai giáp, con gái đầu lòng của ông bằng tuổi tôi, ra lệnh cho tôi thì tôi đâu dám cãi lại? Nhưng trong trường hợp này, tôi lễ phép trả lời:
– Thưa anh, em có thể dùng lời hoa mỹ để làm đẹp lòng các anh. Nhưng em nghĩ rằng đây là thời điểm cuối cùng mà các anh phải nghe tiếng nói chân thật của lớp trẻ chúng em. Chúng ta cần một cuộc cách mạng, ít nhất về mặt tư tưởng, là hãy từ bỏ lối mòn cũ thì may ra mới cứu được nước. Vì nặng lòng với Đất Nước, em mới theo các anh. Nếu không, em đã lo làm giàu để có nhà cao cửa rộng và sống bình yên với vợ con. (Ghi chú: Bà Nội tôi là con gái đầu lòng của Cụ Cao Xuân Dục. Nên họ Cao và họ Đặng là thông gia.)
Nghe tôi trả lời như thế, anh tôi lắc đầu, không nói thêm câu nào. Tôi cảm thấy thương anh mình quá sức! Một bác sĩ ra trường không hành nghề để vinh thân phì da, suốt một đời lận đận vì chuyện nước non, để cuối đời thành một kẻ lưu vong vô Tổ Quốc! Những người anh trong Đại Việt mà tôi biết, phần lớn đều là con nhà gia thế, tuy hấp thụ nền giáo dục của nước Pháp, nhưng họ không làm tay sai cho Pháp. Họ dấn thân vào trường tranh đấu đầy gian nguy để giành Độc Lập, rất dễ bị Pháp bỏ tù, tra tấn và Cộng sản thủ tiêu. Họ đều là những người yêu nước đích thực, nhưng vì bị một lời nguyền (curse) của oan hồn kẻ khuất mặt, mà đành phải chịu thua con Quỷ Đỏ Cộng Sản. Họ cũng giống như nhà văn hóa Nhất Linh Nguyễn Tường Tam mà thôi. Biết bao nhiêu người yêu nước thiết tha, nhưng vì thiếu suy xét đi theo cộng sản, mà thành ra là kẻ phản bội quê hương, phản bội giống nòi!
Hoàng Đế Bảo Đại chắc chắn đã cân nhắc rất kỹ, khi chọn ông Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng vào năm 1954. Bởi vì Vua Bảo Đại từng phong cho ông Ngô Đình Diệm chức Thượng thư Bộ Lại (Thủ tướng), thì điều đầu tiên ông Diệm làm là yêu cầu Thực dân Pháp thay đổi chính sách cai trị cho đúng với chủ trương mà nước Pháp đã đề cao: “Khai hóa dân tộc bán khai”. Nhờ sự trợ giúp của Hoa Kỳ, ông Diệm đã đưa gần một triệu dân Miền Bắc thoát ách đô hộ Cộng sản và định cư cho chừng ấy miệng ăn, không phải là điều dễ dàng. Ngoài ra, ông còn phải dẹp các Giáo phái chống lại Chính phủ. Đặc biệt, ông đã có công làm sạch thành phố gồm có ổ điếm Bình Khang, sòng bạc Kim Chung và Đại Thế giới nằm trong tay giới giang hồ đại đạo đứng ngoài vòng pháp luật, để biến Sài Gòn thành Hòn Ngọc Viễn Đông và thiết lập thể chế dân chủ, khiến cho những nhà lãnh đạo của các Quốc gia quanh vùng đều mơ ước.
Năm 1959 sang Hoa Kỳ,Tổng thống Ngô Đình Diệm cũng đạt thành công Ngoại giao rất đáng kể. Tổng thống Ike Eisenhower, Ngoại trưởng Foster Dulles ra tận sân bay đón tiếp Ngài và dành cho Ngài vinh dự đọc diễn văn trước Lưỡng Viện Quốc Hội. Tổng thống Diệm là vị lãnh đạo Á Châu đầu tiên được Hoa Kỳ dành cho cái vinh dự mà trước kia Hoa Kỳ đã dành cho Winston Churchill, Thủ tướng nước Anh. Báo chí phương Tây so sánh Tổng thống Ngô Đình Diệm ngang hàng với Thủ tướng Mahatma Nehru của Ấn Độ. Tiếc thay! Vì lời nguyền rủa của oan hồn Người Chàm, mà cả dòng họ Ngô bị giết một cách thê thảm và thanh danh ông vẫn còn bị Việt Cộng chà đạp, bôi nhọ tới ngày nay.
Sau cái chết đau thương của anh em nhà Họ Ngô, tình hình chính trị của Miền Nam cực kỳ biến động. Bọn Tướng lãnh phản phúc, cậy có súng có quyền, đã tổ chức đảo chánh, chỉnh lý liên tục. Thời bấy giờ, trong dân gian truyền tụng cái câu “Được làm Vua, thua làm Đại sứ”, nghĩa là đảo chính mà thắng thì được làm Thủ tướng, Quốc trưởng; còn thất bại thì được đi làm Đại sứ! Chẳng có ông Tướng nào bị bỏ tù vì tội làm loạn. Có khi bị “đày” đi làm Đại sứ một thời gian, rồi được quay về lãnh đạo Quốc Gia. Thử hỏi làm sao người bạn Đồng Minh Hoa Kỳ không nản chỉ?
Theo quan điểm của tôi, cuộc đảo chánh nền Đệ Nhất Cộng Hòa mệnh danh “Cuộc Cách Mạng Tháng 11” là một sự ô nhục cho nòi giống Việt Nam. Bởi vì, nếu anh em ông Ngô Đình Diệm phạm tội với quốc dân, tại sao các Tướng lãnh phải giết ông Diệm, ông Nhu một cách hèn hạ? Tại sao không đưa họ ra Tòa để cho Công Lý xét xử? Tại sao không có bất cứ một ông Tướng nào can đảm nhận mình là kẻ đã diệt một tên Bạo Chúa? Những ông Tướng có cảm thấy nhục không, khi Tổng thống Lyndon B. Johnson miệt thị bọn Tướng lãnh giết ông Diệm, ông Nhu là một lũ côn đồ? Có phút giây nào các ông Tướng tỏ ra ân hận vì tàn nhẫn đối với một nhà ái quốc?
Tôi xin nói thẳng điều này, dù các anh chị chiến sĩ VNCH chê trách: “Bản thân tôi không kính trọng các ông Tướng”. Vì sau khi lật đổ chế độ, Tướng Dương văn Minh ra lệnh dẹp bỏ 16 ngàn Ấp Chiến Lược mà không một ông Tướng nào lên tiếng phản đối. Quốc sách Ấp Chiến Lược là một lợi khí của ông Cố vấn Ngô Đình Nhu làm ra để chống lại chủ trương của Hồ Chí Minh học từ Mao Trạch Đông “lấy nông thôn bao vây thành thị”. Hạ tầng cơ sở của Việt Cộng hầu như bị tan rã vì quốc sách “Ấp Chiến Lược”, bỗng nhiên được hoạt động trở lại. Nếu người nào có trí nhớ tốt đều biết sau khi đảo chánh thành công, các ông Tướng ra lệnh hủy bỏ lệnh cấm Nhảy Đầm và bỏ giờ Giới Nghiêm, để cho các tiệm nhảy đầm tưng bừng nhảy nhót thâu đêm suốt sáng.
Đại Tướng Nguyễn Khánh ra Vũng Tàu viết Hiến Chương, bị sinh viên biểu tình phản đối, ông leo lên chiến xa, hòa điệu với đám sinh viên tranh đấu, hô to: “Đả đảo Nguyễn Khánh”! Lãnh đạo Quốc gia mà có hành vi như một “Thằng Hề”! Thử hỏi các anh Lính VNCH phục vụ dưới quyền các Tướng lãnh như thế, có cảm thấy nhục không? Hay là vẫn vỗ ngực tự hào, hãnh diện? Cuối cùng, Đại tướng Nguyễn Khánh phải mang theo nắm đất quê hương, ra ngoại quốc sống lưu vong.
Rõ ràng các Tướng lãnh vừa không có khả năng lãnh đạo Quốc gia, vừa kém tư cách. Lần này, quyền điều khiển Đất Nước trao cho hai vị lãnh tụ dân sự. Cụ Phan Khắc Sửu thuộc Giáo phái Cao Đài làm Quốc trưởng và Bác sĩ Phan Huy Quát theo Phật giáo làm Thủ tướng.
Cụ Phan Khắc Sửu là nhà cách mạng, từng bị đày ra nhà tù Côn Đảo và từng làm Chủ tịch Thượng Hội Đồng Quốc Gia. Bác sĩ Phan Huy Quát từng làm Bộ trưởng từ thời Nội các Trần Trọng Kim và Bộ trưởng Giáo Dục, Bộ trưởng Quốc Phòng dưới các ông Thủ tướng thời Tây đô hộ. Với quá trình chính trị của hai vị như thế, chắc chắn từ nay tình hình chính trị sẽ ổn định, đỡ bát nháo sau một thời gian dài xáo trộn. Nhưng không! Tình hình còn bết bát hơn. Bọn Việt Cộng đội lốt Thầy Chùa trong Khối Ấn Quang vẫn tiếp tục tranh đấu, chống “Cần Lao Công Giáo” và lên án Chính quyền Phan Khắc Sửu – Phan Huy Quát là một “Chính quyền Diệm không Diệm”. Tiếc thay! Hai nhà chính trị lão thành có đầy đủ tính liêm khiết, nhưng cũng không có khả năng cứu vãn tình hình. Ngoài ra, hai vị đặt tự ái của mình quá cao, nên không thể hòa giải những xung khắc không đáng có. Cả hai đều đành đi tới giải pháp trao lại quyền hành cho Quân Đội!
Hội Đồng Quân Lực họp ngày 19 tháng 6 năm 1965 để chọn một Thủ tướng thành lập Chính phủ. Tướng Không Quân Nguyễn Cao Kỳ ba lần thuyết phục Trung tướng Nguyễn văn Thiệu – đương kim Phó Thủ tướng, kiêm Bộ trưởng Quốc Phòng trong Chính phủ Phan Huy Quát – đứng ra thành lập Chính Phủ. Nhưng cả ba lần, Trung tướng Thiệu cương quyết từ chối. Sau đó, Tướng Kỳ đề nghị Trung tướng Nguyễn Chánh Thi. Nhưng cũng giống như Trung tướng Thiệu, Tướng Thi cũng cương quyết từ chối. Chẳng phải Tướng Thiệu, Tướng Thi không thích làm Thủ Tướng. Hai ông đều là kẻ rắn mắt, khôn lỏi, nhận thấy không đủ khả năng lãnh đạo Quốc Gia vào thời điểm cực kỳ khó khăn, thì đẩy cho Nguyễn Cao Kỳ, chứ chẳng phải yêu quý gì Nguyễn Cao Kỳ!
Tôi thích Nguyễn Cao Kỳ ở chỗ ông ta là một người lính đích thực. Khi các thành viên trong Hội Đồng Quân Lực vỗ tay tán thưởng Nguyễn Cao Kỳ làm Thủ tướng theo đề nghị của Tướng Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ chấp nhận thi hành, chứ không làm bộ “em chã, em chã”. Giống như khi anh em phi công chúng tôi được lệnh trên thực hiện một phi vụ dù nguy hiểm đến thế nào, cũng lo thi hành, chứ không đi bệnh xá để giả vờ cáo bệnh.
Vì lãnh trách nhiệm do Quân Đội giao phó, Tướng Kỳ được sự góp ý của nhà báo Như Phong Lê văn Tiến và Trung tá KQ Nguyễn Khoa Dánh đã thành lập Chính phủ theo mô hình Tập thể Quân Đội lãnh đạo và cá nhân Quân Đội phụ trách. Khác lần trước, Chính phủ gồm có Quốc Trưởng và Thủ Tướng, nhưng lần này thì có Chủ tịch Ủy ban Lãnh Đạo Quốc gia (thay cho danh xưng Quốc trưởng) và Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương (thay cho danh xưng Thủ tướng). Tướng Kỳ đề nghị Nguyễn văn Thiệu giữ chức Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia, Tướng Phạm Xuân Chiểu giữ chức Tổng Thư ký, là mô hình do Tướng Kỳ vẽ ra, chứ không phải do Nhà Lãnh Đạo Nguyễn văn Thiệu phác họa. Chọn Ngày 19 tháng 6 làm Ngày Quân Lực cũng do Tướng Kỳ đặt ra để đánh dấu ngày Ngày Quân Đội Lãnh Trách Nhiệm trước lịch sử. Tướng Kỳ còn đặt tên cho Chính phủ của mình là Nội Các Chiến Tranh hay Chính Phủ của Dân Nghèo. Người không hiểu chuyện thì cho rằng Trung Tướng Nguyễn văn Thiệu là kiến trúc sư lãnh đạo Nội Các chiến tranh. Kỳ thực, Tướng Kỳ mới là người chủ động chương trình và kế hoạch để đối đầu với một nội bộ chia rẽ, chống phá và với cuộc xâm lăng của Việt Cộng. Có thể nói thời điểm 1965 là thời điểm của "thù trong giặc ngoài" hết sức quyết liệt. Bởi thế, Tướng Nguyễn văn Thiệu và Tướng Nguyễn Chánh Thi không dám đảm đương chức vụ Thủ tướng. Nếu lần này, Tướng Nguyễn Cao Kỳ không thể ổn định tình hình, người Mỹ phải bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa.
Hẹn độc giả bài viết tới, tôi sẽ nói về nền Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa. Xin độc giả đón xem.
Bằng Phong Đặng văn Âu
Địa chỉ nhà: 10200 Bolsa Avenue, Westminster, CA.92683.
Địa chỉ Email: bangphongdva033@gmail.com
Telephone: 714 – 276 – 5600.
Ngày 30 tháng 7 năm 2022.