Search This Blog

Saturday, July 30, 2022

KHÔNG CÒN LÀ MỐI NGUY CƠ - BÀI SỐ 8 - BẰNG PHONG ĐẶNG VĂN ÂU

 Bài Thứ Tám

KHÔNG CÒN LÀ MỐI NGUY CƠ.

Bằng Phong Đặng văn Âu

Lời mở đầu : Nhận thấy Họa Diệt Chủng nòi giống Việt Nam không còn là nguy cơ, mà nó đang trên đà hiện thực, người viết xin dẫn chứng những sự kiện để giải thích tại sao mình quan niệm như thế. Người viết dành quyền phản biện cho quý vị thức giả. Tác giả sẽ viết làm nhiều kỳ, kính mong quý độc giả quan tâm vui lòng kiên nhẫn theo dõi.

*******************************************************

Từ khi còn là một sĩ quan trẻ, cấp bậc Trung Úy, nhưng tôi đã sớm nhận thức về ý nghĩa cuộc chiến tranh Quốc – Cộng. Chính vì thế mà trong cuộc họp Hành Quân Cầu Không Vận tiếp tế gạo cho Ban Mê Thuột, tôi đã đứng lên bày tỏ ý kiến với ông Trung tá Không Đoàn trưởng: “Tại sao không lấy tên của một vị anh hùng trong lịch sử để đặt tên chiến dịch, mà lại đặt tên cho chiến dịch là “Kỳ-Duyên-Mai”?

Tôi có bà Mẹ đã dạy đứa bé mồ côi cha giống như bà Mẹ của nhà thơ Phùng Quán dạy con bà cái tính thẳng thắn, bộc trực “Yêu ai cứ bảo là yêu, ghét ai cứ bảo là ghét …”. Sau hôm tham gia chiến dịch về, tôi được lệnh lên trình diện ông Tư Lệnh Nguyễn Cao Kỳ. Dọc đường từ Phi đoàn đến Văn phòng Tư Lệnh, tôi thầm nghĩ như để tự trấn an: “Nếu bị phạt đuổi sang Bộ Binh là cùng! Ở đâu cũng đánh giặc, việc gì phải lo?” Nhưng sự thể khác với dự đoán của tôi. Sau khi tôi đứng nghiêm chào kính, xưng danh tánh, cấp bậc, số quân xong, ông Tư Lệnh rời ghế ngồi đứng lên, ra lệnh tôi bỏ tay xuống và vừa gật gù, vừa nói: “Được lắm! được lắm! Xứng đáng là học trò trường Chu văn An! Thôi! Trở về Phi đoàn lo bay bổng cho đàng hoàng”. Tôi nói lí nhí lời cám ơn ông Tư Lệnh, đưa tay lên chào, quay đàng sau 180 độ theo lối nhà binh, mà trong lòng cảm thấy hân hoan một cách kỳ lạ! Từ đó, tôi sinh lòng ngưỡng mộ ông Tư Lệnh, vì ông hiểu tâm tính cương trực của mình là noi theo tấm gương của Thầy Chu văn An, mặc dầu tôi là học sinh Quốc Học Huế. Càng theo dõi cuộc đời binh nghiệp và chính trị của ông Tư Lệnh, tôi càng nhận thấy Tướng Kỳ xứng đáng là người học trò  của Thầy Chu văn An hơn cả. 

Là lính tráng, tôi có thể ngồi bệt xuống đất nhậu nhẹt với anh em thuộc cấp, nói chuyện tiếu lâm hoặc tán dóc. Nhưng khi bắt tay vào làm một việc quan trọng, tôi rất nghiêm chỉnh, chu đáo. Dù đứng trước các bậc đàn anh vào hạng bậc thầy hay trước một ông Tướng, tôi không ngần ngại nói lên ý nghĩ của riêng mình một cách xây dựng. Hôm nay tôi tường thuật lại với bạn đọc nào chưa từng nghe tôi kể:

Năm 1988, đảng Đại Việt có cuộc họp thống nhất tại nhà anh Nguyễn Quan Vĩnh người bạn cùng khóa Không Quân với tôi tại Thành phố San Jose, California. Thành phần tham dự gồm có: Cụ Cung Đình Quỳ – Cựu Bộ trưởng Canh Nông trong Chính phủ Trần Trọng Kim – người cao niên nhất (92 tuổi) làm Chủ tọa phiên họp, bác sĩ Đặng văn Sung, bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn, Đại sứ Bùi Diễm, Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn văn Canh, anh Đặng văn Đệ, anh Đào Nhật Tiến, anh Lê Tấn Trạng, anh Nguyễn văn Ánh và tôi. Chỉ có anh Trạng và anh Ánh là kém tuổi đời và tuổi đảng so với tôi.

Sau phần nghi thức khai mạc trước bàn thờ Tổ Quốc với di ảnh của Cố Đảng trưởng Trương Tử Anh, hát Quốc ca VNCH, hát Đảng ca (Việt Nam Minh Châu Trời Đông) và phút mặc niệm xong, tất cả mọi người an vị tại chiếc bàn dài. Với tư cách là người cao niên nhất, Cụ Cung Đình Quỳ đứng lên và dõng dạc, nghiêm khắc quở trách các lãnh tụ đảng mà tôi có cảm tưởng như đó là lời của đồng chí Đảng trưởng Trương Tử Anh vọng về. Cuối cùng, Cụ tuyên bố:

   Kể từ nay, tôi muốn các đồng chí phải cùng nhau một lòng một dạ đoàn kết phất Ngọn Cờ Đại Việt để giải phóng quê hương Việt Nam.

Tiếp theo đó, các anh lớn bày tỏ niềm ân hận vì đã chia rẽ nhau trong quá khứ. Các anh bắt tay nhau, nói lời xin lỗi. Mắt anh nào anh nấy đều hoe đỏ, cam kết giữ lời thề năm xưa. Thấy những đồng chí niên trưởng tuy đã già, nhưng vẫn còn tha thiết với quê hương, tôi cảm động vô cùng. Họ nói với nhau những lời ân hận rất chân tình, trong lòng tôi cũng cảm thấy rưng rưng.

Đến lượt được phát biểu, tôi nói:

   Thưa các đồng chí, cho phép đàn em dùng hai chữ “Anh Em” để xưng hô, thay vì hai chữ “đồng chí”. Vừa rồi, Cụ Chủ tọa Cung Đình Quỳ kêu gọi các anh đoàn kết với nhau phất ngọn cờ Đại Việt để giải phóng nhân dân Việt Nam thoát ách cộng sản là em không đồng ý.

Nói tới đó, tôi ngưng. Các anh lớn đều nhìn về phía tôi bằng cặp mắt ngạc nhiên. Tôi nói tiếp:

  Tại sao đảng Đại Việt chúng ta không vận động toàn dân để cùng nhau phất Ngọn Cờ Dân Tộc? Chỉ yêu cầu phất Ngọn Cờ Đại Việt là còn biểu hiện cái tinh thần cục bộ, phe phái, thì làm thế nào có thể giải phóng dân tộc? Đảng trưởng Trương Tử Anh lập thuyết “Dân Tộc Sinh Tồn” là để chống Thực dân Pháp, nhưng quan trọng hơn hết là để chống chủ nghĩa cộng sản phi dân tộc. Em xin nhấn mạnh: Đảng trưởng Trương Tử Anh đề ra chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn là có chủ đích đoàn kết toàn bộ dân tộc, thì mới chống nổi Thực dân và Cộng sản. Sau năm 1954, chế độ Thực dân Pháp đã cáo chung, người Mỹ nhảy vào giúp ta vũ khí, tài chánh, tại sao các anh không đoàn kết với nhau, hợp tác với Chính quyền Ngô Đình Diệm để trả mối thù cho Đảng trưởng bị Cộng sản xử tử hình? Lớp đảng viên trẻ chúng em đứng trước sự chia rẽ của đàn anh, bị lâm vào tình trạng giống như những đứa con có cha mẹ ly dị nhau, mặc dầu đều tôn thờ lý tưởng dân tộc sinh tồn, nhưng đều e dè đối với nhau. Nếu chúng em đứng về phía anh Ký, thì anh Huy buồn. Hoặc ngược lại. Tại sao trong Tân Đại Việt của anh Huy đa số đảng viên là người Miền Nam? Tại sao trong Đại Việt Cách Mạng của anh Ký đa số đảng viên là người Miền Trung và người Miền Bắc? Các anh có thấy điều đó là sai? Xin anh Hoàn, anh Ký xác nhận cho biết có phải hai anh đã đứng ra nhận lời tuyên thệ của ông Nguyễn văn Thiệu gia nhập Đại Việt sau biến cố Tháng 11 năm 1963?”.

Cả hai anh đều xác nhận đúng. Tôi tiếp tục:

 Theo điều lệ Đảng, nếu đảng viên phản đảng thì sẽ bị khai trừ ra khỏi đảng. Tại sao ông Nguyễn văn Thiệu bỏ đảng, ra lập đảng Dân Chủ mà các anh không có phản ứng? Theo em, sự im lặng của các anh trước sự tham nhũng, trước sự mua quan bán chức của chính quyền Tổng thống Nguyễn văn Thiệu và trước vụ buôn lậu ầm ĩ Còi Hụ Long An, đã khiến cho đảng Đại Việt mất uy tín và mất tư thế lãnh đạo quần chúng. Người dân thấp cổ bé miệng không dám kêu ca, nhưng chúng ta là một đảng có tên tuổi, tại sao các anh giữ im lặng?

Ra Hải ngoại, Phó Đề đốc Hải Quân Hoàng Cơ Minh lập Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam (Mặt Trận) hoàn toàn phi nguyên tắc đấu tranh bạo lực. Sự lừa bịp của Mặt Trận đã rơi mặt nạ, anh Huy và anh Ký đã biết ông Hoàng Cơ Minh đã chết trên đất Thái từ năm 1987. Tại sao hai anh là người đang lãnh đạo hai tổ chức đấu tranh đều giữ im lặng, vẫn để yên cho bọn Kháng Chiến Bịp Bợm làm mưa làm gió? Nếu sau cuộc thống nhất Đại Việt hôm nay mà các anh vẫn giữ im lặng, thì em xin quả quyết rằng Đảng ta chẳng có một chút uy tín nào đối với quần chúng như trước năm 1975! Thà đừng kết hợp nhau, Đảng cứ lẳng lặng lùi dần vào bóng tối, để mặc cho bọn đầu cơ chính trị tung hoành, để đỡ mang tiếng với lịch sử! Em nghĩ, nếu chúng ta còn quyết tâm chiến đấu chống Cộng sản, thì trước hết chúng ta phải triệt tiêu những phần tử làm mất Chính nghĩa Dân Tộc và bọn giả hình mượn danh nghĩa Chống Cộng để mua danh, để thủ lợi”.

Sau lời phát biểu của tôi, các anh lớn quá ngỡ ngàng, vì không ngờ một thằng đàn em dám nói một lời mạnh bạo như thế. Không khí phòng họp trở nên căng thẳng một cách khó chịu, vì làm sao các anh có thể trả lời tâm tư của thằng đàn em mà trong lòng đã ấm ức lâu ngày? Vừa lúc đó, anh chủ nhà Nguyễn Quan Vĩnh mời mọi người ngừng buổi họp để ăn trưa. Bữa ấy, bầu trời miền Bắc California rất đẹp, thức ăn và thức uống đều dọn sẵn trên bàn đặt ở ngoài sân. Bác sĩ Đặng văn Sung vẫy tôi lại, nói:

   Chú mày vẫn cái thói nhà binh không bỏ. Những gì chú nói trong buổi họp, làm cho anh Ký, anh Huy buồn lắm đấy! Hãy đến xin lỗi các anh ấy đi!

Gia pháp của hai nhà họ Đặng Văn và Cao Xuân rất nghiêm, làm em không được phép cãi lời anh. Ngay cả ông Cao Xuân Vỹ lớn hơn tôi 20 tuổi, nhưng lúc nào cũng xưng em với tôi. Huống chi, bác sĩ Sung sinh năm 1916 hơn tôi đến hai giáp, con gái đầu lòng của ông bằng tuổi tôi, ra lệnh cho tôi thì tôi đâu dám cãi lại?  Nhưng trong trường hợp này, tôi lễ phép trả lời:

  Thưa anh, em có thể dùng lời hoa mỹ để làm đẹp lòng các anh. Nhưng em nghĩ rằng đây là thời điểm cuối cùng mà các anh phải nghe tiếng nói chân thật của lớp trẻ chúng em. Chúng ta cần một cuộc cách mạng, ít nhất về mặt tư tưởng, là hãy từ bỏ lối mòn cũ thì may ra mới cứu được nước. Vì nặng lòng với Đất Nước, em mới theo các anh. Nếu không, em đã lo làm giàu để có nhà cao cửa rộng và sống bình yên với vợ con. (Ghi chú: Bà Nội tôi là con gái đầu lòng của Cụ Cao Xuân Dục. Nên họ Cao và họ Đặng là thông gia.)

Nghe tôi trả lời như thế, anh tôi lắc đầu, không nói thêm câu nào. Tôi cảm thấy thương anh mình quá sức! Một bác sĩ ra trường không hành nghề để vinh thân phì da, suốt một đời lận đận vì chuyện nước non, để cuối đời thành một kẻ lưu vong vô Tổ Quốc! Những người anh trong Đại Việt mà tôi biết, phần lớn đều là con nhà gia thế, tuy hấp thụ nền giáo dục của nước Pháp, nhưng họ không làm tay sai cho Pháp. Họ dấn thân vào trường tranh đấu đầy gian nguy để giành Độc Lập, rất dễ bị Pháp bỏ tù, tra tấn và Cộng sản thủ tiêu. Họ đều là những người yêu nước đích thực, nhưng vì bị một lời nguyền (curse) của oan hồn kẻ khuất mặt, mà đành phải chịu thua con Quỷ Đỏ Cộng Sản. Họ cũng giống như nhà văn hóa Nhất Linh Nguyễn Tường Tam mà thôi. Biết bao nhiêu người yêu nước thiết tha, nhưng vì thiếu suy xét đi theo cộng sản, mà thành ra là kẻ phản bội quê hương, phản bội giống nòi!

Hoàng Đế Bảo Đại chắc chắn đã cân nhắc rất kỹ, khi chọn ông Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng vào năm 1954. Bởi vì Vua Bảo Đại từng phong cho ông Ngô Đình Diệm chức Thượng thư Bộ Lại (Thủ tướng), thì điều đầu tiên ông Diệm làm là yêu cầu Thực dân Pháp thay đổi chính sách cai trị cho đúng với chủ trương mà nước Pháp đã đề cao: “Khai hóa dân tộc bán khai”. Nhờ sự trợ giúp của Hoa Kỳ, ông Diệm đã đưa gần một triệu dân Miền Bắc thoát ách đô hộ Cộng sản và định cư cho chừng ấy miệng ăn, không phải là điều dễ dàng. Ngoài ra, ông còn phải dẹp các Giáo phái chống lại Chính phủ. Đặc biệt, ông đã có công làm sạch thành phố gồm có ổ điếm Bình Khang, sòng bạc Kim Chung và Đại Thế giới nằm trong tay giới giang hồ đại đạo đứng ngoài vòng pháp luật, để biến Sài Gòn thành Hòn Ngọc Viễn Đông và thiết lập thể chế dân chủ, khiến cho những nhà lãnh đạo của các Quốc gia quanh vùng đều mơ ước.

Năm 1959 sang Hoa Kỳ,Tổng thống Ngô Đình Diệm cũng đạt thành công Ngoại giao rất đáng kể. Tổng thống Ike Eisenhower, Ngoại trưởng Foster Dulles ra tận sân bay đón tiếp Ngài và dành cho Ngài vinh dự đọc diễn văn trước Lưỡng Viện Quốc Hội. Tổng thống Diệm là vị lãnh đạo Á Châu đầu tiên được Hoa Kỳ dành cho cái vinh dự mà trước kia Hoa Kỳ đã dành cho Winston Churchill, Thủ tướng nước Anh. Báo chí phương Tây so sánh Tổng thống Ngô Đình Diệm ngang hàng với Thủ tướng Mahatma Nehru của Ấn Độ. Tiếc thay! Vì lời nguyền rủa của oan hồn Người Chàm, mà cả dòng họ Ngô bị giết một cách thê thảm và thanh danh ông vẫn còn bị Việt Cộng chà đạp, bôi nhọ tới ngày nay.

Sau cái chết đau thương của anh em nhà Họ Ngô, tình hình chính trị của Miền Nam cực kỳ biến động. Bọn Tướng lãnh phản phúc, cậy có súng có quyền, đã tổ chức đảo chánh, chỉnh lý liên tục. Thời bấy giờ, trong dân gian truyền tụng cái câu “Được làm Vua, thua làm Đại sứ”, nghĩa đảo chính mà thắng thì được làm Thủ tướng, Quốc trưởng; còn thất bại thì được đi làm Đại sứ! Chẳng có ông Tướng nào bị bỏ tù vì tội làm loạn. Có khi bị “đày” đi làm Đại sứ một thời gian, rồi được quay về lãnh đạo Quốc Gia. Thử hỏi làm sao người bạn Đồng Minh Hoa Kỳ không nản chỉ?

Theo quan điểm của tôi, cuộc đảo chánh nền Đệ Nhất Cộng Hòa mệnh danh “Cuộc Cách Mạng Tháng 11” là một sự ô nhục cho nòi giống Việt Nam. Bởi vì, nếu anh em ông Ngô Đình Diệm phạm tội với quốc dân, tại sao các Tướng lãnh phải giết ông Diệm, ông Nhu một cách hèn hạ? Tại sao không đưa họ ra Tòa để cho Công Lý xét xử? Tại sao không có bất cứ một ông Tướng nào can đảm nhận mình là kẻ đã diệt một tên Bạo Chúa? Những ông Tướng có cảm thấy nhục không, khi Tổng thống Lyndon B. Johnson miệt thị bọn Tướng lãnh giết ông Diệm, ông Nhu là một lũ côn đồ? Có phút giây nào các ông Tướng tỏ ra ân hận vì tàn nhẫn đối với một nhà ái quốc?

Tôi xin nói thẳng điều này, dù các anh chị chiến sĩ VNCH chê trách: “Bản thân tôi không kính trọng các ông Tướng”. Vì sau khi lật đổ chế độ, Tướng Dương văn Minh ra lệnh dẹp bỏ 16 ngàn Ấp Chiến Lược mà không một ông Tướng nào lên tiếng phản đối. Quốc sách Ấp Chiến Lược là một lợi khí của ông Cố vấn Ngô Đình Nhu làm ra để chống lại chủ trương của Hồ Chí Minh học từ Mao Trạch Đông “lấy nông thôn bao vây thành thị”. Hạ tầng cơ sở của Việt Cộng hầu như bị tan rã vì quốc sách “Ấp Chiến Lược”, bỗng nhiên được hoạt động trở lại. Nếu người nào có trí nhớ tốt đều biết sau khi đảo chánh thành công, các ông Tướng ra lệnh hủy bỏ lệnh cấm Nhảy Đầm và bỏ giờ Giới Nghiêm, để cho các tiệm nhảy đầm tưng bừng nhảy nhót thâu đêm suốt sáng.

Đại Tướng Nguyễn Khánh ra Vũng Tàu viết Hiến Chương, bị sinh viên biểu tình phản đối, ông leo lên chiến xa, hòa điệu với đám sinh viên tranh đấu, hô to: “Đả đảo Nguyễn Khánh”! Lãnh đạo Quốc gia mà có hành vi như một “Thằng Hề”! Thử hỏi các anh Lính VNCH phục vụ dưới quyền các Tướng lãnh như thế, có cảm thấy nhục không? Hay là vẫn vỗ ngực tự hào, hãnh diện? Cuối cùng, Đại tướng Nguyễn Khánh phải mang theo nắm đất quê hương, ra ngoại quốc sống lưu vong.

Rõ ràng các Tướng lãnh vừa không có khả năng lãnh đạo Quốc gia, vừa kém tư cách. Lần này, quyền điều khiển Đất Nước trao cho hai vị lãnh tụ dân sự. Cụ Phan Khắc Sửu thuộc Giáo phái Cao Đài làm Quốc trưởng và Bác sĩ Phan Huy Quát theo Phật giáo làm Thủ tướng.

Cụ Phan Khắc Sửu là nhà cách mạng, từng bị đày ra nhà tù Côn Đảo và từng làm Chủ tịch Thượng Hội Đồng Quốc Gia. Bác sĩ Phan Huy Quát từng làm Bộ trưởng từ thời Nội các Trần Trọng Kim và Bộ trưởng Giáo Dục, Bộ trưởng Quốc Phòng dưới các ông Thủ tướng thời Tây đô hộ. Với quá trình chính trị của hai vị như thế, chắc chắn từ nay tình hình chính trị sẽ ổn định, đỡ bát nháo sau một thời gian dài xáo trộn. Nhưng không! Tình hình còn bết bát hơn. Bọn Việt Cộng đội lốt Thầy Chùa trong Khối Ấn Quang vẫn tiếp tục tranh đấu, chống “Cần Lao Công Giáo” và lên án Chính quyền Phan Khắc Sửu – Phan Huy Quát là một “Chính quyền Diệm không Diệm”. Tiếc thay! Hai nhà chính trị lão thành có đầy đủ tính liêm khiết, nhưng cũng không có khả năng cứu vãn tình hình. Ngoài ra, hai vị đặt tự ái của mình quá cao, nên không thể hòa giải những xung khắc không đáng có. Cả hai đều đành đi tới giải pháp trao lại quyền hành cho Quân Đội!

Hội Đồng Quân Lực họp ngày 19 tháng 6 năm 1965 để chọn một Thủ tướng thành lập Chính phủ. Tướng Không Quân Nguyễn Cao Kỳ ba lần thuyết phục Trung tướng Nguyễn văn Thiệu – đương kim Phó Thủ tướng, kiêm Bộ trưởng Quốc Phòng trong Chính phủ Phan Huy Quát – đứng ra thành lập Chính Phủ. Nhưng cả ba lần, Trung tướng Thiệu cương quyết từ chối. Sau đó, Tướng Kỳ đề nghị Trung tướng Nguyễn Chánh Thi. Nhưng cũng giống như Trung tướng Thiệu, Tướng Thi cũng cương quyết từ chối. Chẳng phải Tướng Thiệu, Tướng Thi không thích làm Thủ Tướng. Hai ông đều là kẻ rắn mắt, khôn lỏi, nhận thấy không đủ khả năng lãnh đạo Quốc Gia vào thời điểm cực kỳ khó khăn, thì đẩy cho Nguyễn Cao Kỳ, chứ chẳng phải yêu quý gì Nguyễn Cao Kỳ!

Tôi thích Nguyễn Cao Kỳ ở chỗ ông ta là một người lính đích thực. Khi các thành viên trong Hội Đồng Quân Lực vỗ tay tán thưởng Nguyễn Cao Kỳ làm Thủ tướng theo đề nghị của Tướng Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ chấp nhận thi hành, chứ không làm bộ “em chã, em chã”. Giống như khi anh em phi công chúng tôi được lệnh trên thực hiện một phi vụ dù nguy hiểm đến thế nào, cũng lo thi hành, chứ không đi bệnh xá để giả vờ cáo bệnh.

Vì lãnh trách nhiệm do Quân Đội giao phó, Tướng Kỳ được sự góp ý của nhà báo Như Phong Lê văn Tiến và Trung tá KQ Nguyễn Khoa Dánh đã thành lập Chính phủ theo mô hình Tập thể Quân Đội lãnh đạo và cá nhân Quân Đội phụ trách. Khác lần trước, Chính phủ gồm có Quốc Trưởng và Thủ Tướng, nhưng lần này thì có Chủ tịch Ủy ban Lãnh Đạo Quốc gia (thay cho danh xưng Quốc trưởng) và Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương (thay cho danh xưng Thủ tướng). Tướng Kỳ đề nghị Nguyễn văn Thiệu giữ chức Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia, Tướng Phạm Xuân Chiểu giữ chức Tổng Thư ký, là mô hình do Tướng Kỳ vẽ ra, chứ không phải do Nhà Lãnh Đạo Nguyễn văn Thiệu phác họa. Chọn Ngày 19 tháng 6 làm Ngày Quân Lực cũng do Tướng Kỳ đặt ra để đánh dấu ngày Ngày Quân Đội Lãnh Trách Nhiệm trước lịch sử. Tướng Kỳ còn đặt tên cho Chính phủ của mình là Nội Các Chiến Tranh hay Chính Phủ của Dân Nghèo. Người không hiểu chuyện thì cho rằng Trung Tướng Nguyễn văn Thiệu là kiến trúc sư lãnh đạo Nội Các chiến tranh. Kỳ thực, Tướng Kỳ mới là người chủ động chương trình và kế hoạch để đối đầu với một nội bộ chia rẽ, chống phá và với cuộc xâm lăng của Việt Cộng. Có thể nói thời điểm 1965 là thời điểm của  "thù trong giặc ngoài" hết sức quyết liệt. Bởi thế, Tướng Nguyễn văn Thiệu và Tướng Nguyễn Chánh Thi không dám đảm đương chức vụ Thủ tướng. Nếu lần này, Tướng Nguyễn Cao Kỳ không thể ổn định tình hình, người Mỹ phải bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa.

Hẹn độc giả bài viết tới, tôi sẽ nói về nền Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa. Xin độc giả đón xem.

Bằng Phong Đặng văn Âu

Địa chỉ nhà: 10200 Bolsa Avenue, Westminster, CA.92683.

Địa chỉ Email: bangphongdva033@gmail.com 

Telephone: 714 – 276 – 5600.

Ngày 30 tháng 7 năm 2022.

Thursday, July 21, 2022

PHAN TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH

 

Hồ sơ về Tướng Dương Văn Minh

Phạm Văn Hùng

Nhận định của Bằng Phong Đặng văn Âu: Dưới đây là tài liệu về Tướng Dương văn Minh do phía Hà Nội viết (tất nhiên đề cao Dương văn Minh), nhưng ít nhất cho ta biết khả năng địch vận của Việt Cộng. Tôi từng nói cuộc xâm lăng của Việt Cộng không chỉ đơn thuần trên phương diện Quân Sự. Đó là cuộc chiến tranh toàn diện: Chính trị, Tôn giáo, Tình báo.

Việt Cộng có thể dựng một ông Tướng Việt Nam Cộng Hòa – Dương văn Minh – trở thành một thủ lĩnh đảo chính Việt Nam Cộng Hòa, Quốc trưởng (năm 1963) và Tổng thống (năm 1975). Việt Cộng cũng có thể dựng một Tướng Việt Nam Cộng Hòa khác – Hoàng Cơ Minh – trở thành thủ lĩnh Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam và sử dụng Mặt Trận ở Hải ngoại giống như Việt Cộng đã dùng Dương văn Minh ở Sài Gòn. Tôi đã nghi ngờ Kinh Tế Gia Nguyễn Xuân Nghĩa – cháu ruột của Tổng Bí thư Mười Cúc Nguyễn văn Linh – khi anh ta được Phạm Dương Hiển , Tham vụ Ngoại giáo VNCH giới thiệu cho Mặt Trận. Tôi đã cảnh báo cho Đại sứ Bùi Diễm, một lãnh tụ Đại Việt, từng giao du thân mật với Nguyễn Xuân Nghĩa nhưng ông không quan tâm, bởi vì các chính trị gia phía VNCH có tính chất tài tử, hơn là chuyên nghiệp.   

Tướng Hoàng Cơ Minh phải đi vào “Khu Chiến” là để tránh phải trả lời những câu hỏi của FBI, chứ không phải lên đường cứu nước như Việt Tân tuyên truyền. Việt Cộng đã sử dụng “blackmail” (chantage) để sai khiến Việt Tân phải làm việc cho chúng. Tập Thể Chiến sĩ VNCH là ngoại vi của Việt Tân, để thi hành Nghị Quyết 36, nên Tập Thể chỉ làm công tác của Đại Đội Chung Sự lo việc kéo cờ lên, hạ cờ xuống, phủ cở, xếp cờ (như nhà báo Sức Mấy Đinh Từ Thức chế giễu.

Trước khi thực hiện bất cứ làm một “phi vụ” gì, Việt Cộng “điều nghiên” rất kỹ. Ví dụ, muốn tấn công một đồn bót, Việt Cộng lập sa bàn để thực tập. Khi đưa một nhân vật lên làm Chủ tịch Tập Thể, Việt Cộng cũng “điều nghiên” đặc tính cá nhân đương sự phải là một nhân vật có tính háo danh, nhưng hoàn toàn mù tịt về thủ đoạn của Việt Cộng. Đó là lý do tại sao Tập Thể Chiến Sĩ không làm một tờ báo để lật mặt nạ sự lừa đảo của Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, mà tôi khuyến cáo nhiều lần.

 

 

L.T.S: Hồn Việt số 11 (tháng 5/2008) đã đăng một số ý kiến về Tướng Dương Văn Minh. Đó là một số ý kiến bước đầu quan trọng, giúp ta tìm hiểu sâu hơn một sự kiện lịch sử, một con người. Kỳ này, Hồn Việt xin công bố bản tóm tắt của một công trình nghiên cứu công phu, nhiều tư liệu mới với độ tin cậy cao của ông Phạm Văn Hùng. Hi vọng rằng, với công trình nghiên cứu này, sự kiện về Tướng Dương Văn Minh sẽ được sáng tỏ thêm. Nó chứng minh thêm tầm vóc của ngày 30/4 lịch sử dưới sự lãnh đạo toàn diện, sâu sát, kiên trì… của Bộ Chỉ huy tối cao đứng đầu là Lê Duẩn và của những người trực tiếp tham gia ở chiến trường miền Nam, của Trung Ương Cục miền Nam. Nó cũng chứng tỏ sự phối hợp tuyệt đẹp giữa quân sự - chính trị - địch vận… trong cuộc chiến tranh giải phóng. Nó nói lên sự phong phú vô tận của cuộc sống, của cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc của lòng yêu nước Việt Nam…

Chúng tôi mong nhận được thêm nhiều ý kiến. (HV)

 

https://sachhiem.net/LICHSU/IMG/VNwar/DuongVanMinh.jpg

THÂN THẾ VÀ GIA ĐÌNH

- Ông Dương Văn Minh sinh năm 1916 ở tỉnh Mỹ Tho. Cha là ông Dương Văn Huề, khi đi học mướn lấy tên là Dương Văn Mau (tên của người bà con), làm thầy giáo, sau làm tri phủ, rồi đốc phủ sứ (hàm).

Ông Dương Văn Huề và bà Nguyễn Thị Kỹ có bảy người con: bốn trai, ba gái. Ông Minh là con cả. Dương Thanh Nhựt là con trai kế, có tham gia hoạt động cách mạng từ trước Cách mạng tháng Tám (năm 1944) và suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, là đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam. Dương Thanh Sơn, em trai thứ năm, là sĩ quan chế độ cũ.

Gia đình ông Minh theo đạo Phật, lễ giáo, nề nếp.

- Năm 1940, Dương Văn Minh học trường đào tạo hạ sĩ quan và sĩ quan dự bị của Pháp. Năm 1942 vào quân đội Pháp.

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Dương Văn Minh tham gia lực lượng vũ trang cách mạng chống Pháp xâm lược. Pháp trở lại, gia đình ông Minh tản cư về Chợ Đệm (Tân An). Lần đó, ông về thăm nhà, đơn vị rút đi, ông bị kẹt lại chưa tìm được đơn vị thì bị Tây bắt, buộc ông trở lại làm việc cho quân đội Pháp. Năm 1946, Dương Văn Minh là thiếu úy, đại đội phó quân đội Pháp. Lần lượt lên đến cấp tá, rồi qua Pháp học trường võ bị, là một trong những sĩ quan đầu tiên của quân đội “Việt Nam Cộng Hoà”.

Ông Minh cũng theo đạo Phật, nhân từ, thương người. Sợ sát sinh, sợ phải giết người. Thấy ai bị nạn thì ra tay cứu như can thiệp cho em trai bà Bùi Thị Mè (1) là thiếu tá chế độ cũ bị tình nghi hoạt động cho “Việt Cộng” được thả ra; giúp ông Nguyễn Minh Triết (Bảy Trung), cán bộ của ta và là em bạn dì ruột bị địch bắt giam ở nhà lao Phú Lợi, được ra tù…

- Ông Minh là người rất tự trọng. Sau ngày 30/4/1975, ông được về nhà (98 đường Hồng Thập Tự, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 3) sống với tư cách một “công dân của một nước độc lập” (2). Đời sống khó khăn, ông lại bị bệnh tiểu đường, bị đau dạ dày. Có lúc lãnh đạo Thành phố (đồng chí Võ Văn Kiệt) nhờ bà Bùi Thị Mè gợi ý khéo là Đảng và chính quyền thành phố muốn hỗ trợ ông trong cuộc sống. Nhưng ông Minh từ chối với lý do: “Các anh các chị sống được thì tôi cũng sống được nếu chưa quen thì phải tập lại cho quen”.

Năm 1983, ông Minh được Chính phủ ta chấp thuận để ông sang Pháp trị bệnh và thăm con. Toà Tổng Lãnh sự Pháp ở Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Bộ Ngoại giao Pháp giúp ông Minh vé máy bay và tiền gửi hành lý nhưng ông Minh từ chối, nói rằng “đã có Chính phủ Việt Nam lo rồi”.

Khi đi, ông Minh chỉ xin mang theo một ít đồ cổ trong nhà. Sang Pháp, ông không nhờ vả gì Chính phủ Pháp, không xin trợ cấp xã hội Pháp.

 

QUÁ TRÌNH BINH ĐỊCH VẬN ĐỐI VỚI TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH

Công tác binh địch vận đối với tướng Dương Văn Minh bắt đầu từ năm 1962, với nhiều lực lượng, nhiều ban ngành tham gia: Binh vận Trung Ương Cục, Tình báo, An ninh T4 (Sài Gòn - Gia Định), Trí vận…

1/ Ban binh vận Trung Ương Cục miền Nam

Năm 1960, theo yêu cầu của Ban binh vận Xứ ủy Nam bộ (sau này là Trung Ương Cục miền Nam), đồng chí Võ Văn Thời, Cục trưởng Cục địch vận Tổng Cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam đề nghị và được cấp trên đồng ý điều động đồng chí Dương Thanh Nhựt (3) về Cục để giao nhiệm vụ về miền Nam vận động Dương Văn Minh. Đồng chí Nhựt được đặt bí danh là Mười Ty. Cuối tháng 12/1960, đồng chí Mười Ty lên đường.

Tháng 8/1962, đồng chí Mười Ty móc được với gia đình, trước hết là với ông Nguyễn Văn Di, cậu ruột; qua cậu, móc vợ là Sử Thị Hương, nhắn vợ về thăm mẹ và tìm hiểu thái độ của anh hai Dương Văn Minh. Sau đó Mười Ty thăm em trai là Dương Thanh Sơn, sĩ quan quân đội Sài Gòn và em thứ tám là Dương Thu Vân.

Thấy tình hình thuận lợi, đồng chí Mười Ty hướng dẫn cán bộ mật đem ý kiến của lãnh đạo trao đổi với Dương Văn Minh về việc đảo chính Chính phủ Ngô Đình Diệm. Trong lúc Tướng Minh đang bực tức Ngô Đình Diệm độc tài, gia đình trị, phủ nhận công lao của mình (tảo thanh Bình Xuyên và các giáo phái Hoà Hảo). Tướng Minh hứa sẽ tìm cách làm.

Ngày 01/11/1963, Trung tướng Dương Văn Minh nhân danh Chủ tịch Hội đồng quân nhân cách mạng phát lệnh đảo chính Chính phủ Ngô Đình Diệm và lên làm Quốc trưởng Việt Nam Cộng Hòa lần thứ nhất. Đồng chí Mười Ty nắm được ý định Tướng Minh chuẩn bị đảo chính Diệm và có báo cáo về Ban binh vận Trung Ương Cục.

Sau cuộc đảo chính Ngô Đình Diệm một thời gian, đồng chí Mười Ty có vào nhà Dương Văn Minh (98 Hồng Thập Tự, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai), sau đó qua nhà em là Dương Thanh Sơn ở mười ngày. Qua nhiều lần gặp và trao đổi với Dương Văn Minh, đồng chí Mười Ty cho rằng Tướng Minh trước đây mơ hồ về Mỹ là tên xâm lược, nay thì hết tranh cãi về điều này, nhưng vẫn còn cho là Mỹ có giúp đỡ miền Nam. Tướng Minh hứa hủy bỏ ấp chiến lược, cho nhân dân về nhà cũ với ruộng vườn, mồ mả ông bà.

Trong thời gian làm Quốc trưởng lần thứ nhất. Dương Văn Minh có một số hành động tiến bộ có lợi cho cách mạng:

+ Quyết định hủy bỏ 16.000 ấp chiến lược. Đại sứ Mỹ Cabot Lodge hỏi Dương Văn Minh vì sao làm thế? Ông trả lời, đại ý: Người Việt Nam có phong tục tập quán riêng, không người nào muốn xa rời mảnh đất đã gắn bó đời mình và mồ mả ông cha. Dồn dân vào ấp chiến lược là chủ trương sai, vì lẽ đó tôi giải tán ấp chiến lược để người dân trở về quê cũ của mình.

+ Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Mc Namara và Tướng Harkin yêu cầu Quốc trưởng Dương Văn Minh để cho Hoa Kỳ ném bom ra miền Bắc, không ném ồ ạt mà ném bom nổ chậm trên đê sông Hồng. Miền Bắc sẽ bị lũ lụt mất mùa, người dân sẽ đói… Dương Văn Minh lắc đầu từ chối.

+ Tháng 1/1964, Đại sứ Cabot Lodge yêu cầu Quốc trưởng Dương Văn Minh nghiên cứu, chuẩn y và thực hiện kế hoạch 34A (hoạt động gián điệp, biệt kích chống miền Bắc). Dương Văn Minh không trả lời.

+ Theo lời kêu gọi của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam (4) Dương Văn Minh tỏ ý muốn thương lượng để tuyển cử tự do, thực hiện một chế độ trung lập, lập Chính phủ liên hiệp. Nhưng Mỹ cự tuyệt hòa đàm, chống mọi xu hướng trung lập.

- Do những chủ trương và hành động của Dương Văn Minh không theo đúng ý đồ “Bắc tiến” của Mỹ, theo chỉ thị của Tổng thống Mỹ Johnson, cuối tháng 01/1964, chính quyền Mỹ đã đưa Nguyễn Khánh lên làm Chủ tịch Hội đồng quân nhân cách mạng kiêm Thủ tướng Chính phủ Cộng Hòa Việt Nam bằng một cuộc đảo chính. Nguyễn Khánh tuyên bố: “Tôi đảo chánh Dương Văn Minh để cứu đất nước này khỏi rơi vào tay Cộng sản”.

Mỹ thấy Dương Văn Minh có hậu thuẫn ở miền Nam, nhưng khó điều khiển nên chỉ thị cho Chính quyền Sài Gòn phong Dương Văn Minh làm đại tướng và cử làm đại sứ lưu động ở Đài Loan. Mỹ mời ông Minh qua Mỹ một thời gian rồi cho lưu vong ở Thái Lan (từ đầu năm 1965) có sự giám sát của CIA, làm con bài dự trữ.

Cuối năm 1967, theo chỉ đạo của đồng chí Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh, Phó Bí thư Trung Ương Cục miền Nam) và Ban binh vận Trung Ương Cục, đồng chí Mười Ty có chuyến qua Pháp, ở nhà em rể là Charlot để móc người em gái thứ 8 là Dương Thu Vân qua Pháp. Có thời gian Mười Ty ở nhà Dương Minh Đức (con trai Dương Văn Minh). Được biết, khi người em gái thứ 6 Dương Thu Hà bị ung thư chết, Dương Văn Minh có qua Pháp dự đám tang em gái, sau đó ở lại Pháp hơi lâu, có ý chờ tin của Mười Ty. Nhưng vì bọn CIA bảo trung tá Đẩu (sĩ quan tùy viên của Tướng Minh) kêu ông Minh về Thái Lan, nên không ở lâu hơn được nữa.

Khi chị Dương Thu Vân qua Paris gặp Mười Ty cho hay là ông Minh không thể qua Pháp được nữa, thì Mười Ty mới chuyển kế hoạch qua em (Dương Thu Vân) và cháu (Dương Minh Đức) truyền đạt ý kiến của cấp trên cho Dương Văn Minh. Sau đó Đức báo lại ý kiến của cha anh với Mười Ty như sau: “Lập Chính phủ ba thành phần là khó lắm, cần đánh cho văng Thiệu, Mỹ phải rút đi là hết chiến tranh. Tôi có ra làm chính phủ ba thành phần khi bầu cử thì ông Thọ (Luật sư Nguyễn Hữu Thọ) cũng thắng cử, tôi có thất cử cũng không nghĩa lý gì, miễn có lợi cho đất nước là hơn”. Dương Minh Đức nói thêm: Ba cháu không còn lực lượng, không biết làm chính trị, không giỏi bằng ông Thọ; ra ngoài (ra khu) lúc này là không có lợi, ở trong này khi cần có lợi hơn…

Sau đó, đồng chí Mười Ty về Hà Nội, được đồng chí Lê Duẩn gặp và mời cơm (với đồng chí Võ Văn Thời). Sau khi nghe đồng chí Mười Ty báo cáo đầy đủ chuyến đi công tác ở Pháp, đồng chí Lê Duẩn khen và nói: “Dương Văn Minh trả lời như vậy là thành thật, nói như vậy là làm được, chứ hứa hết có khi không làm được…”

Cuối năm 1970,… theo chỉ đạo của Trung Ương và Trung Ương Cục miền Nam, Ban binh vận Trung Ương Cục tìm một người khác, để tiếp cận vận động Dương Văn Minh. Đó là chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, cơ sở của ta trong sĩ quan là bạn bè và thầy trò có thể tiếp cận được với Dương Văn Minh. Đồng chí Nguyễn Tấn Thành (tức Tám Vô Tư), bác của Nguyễn Hữu Hạnh, được Ban binh vận Trung Ương Cục giao nhiệm vụ trực tiếp nắm và bồi dưỡng cho Nguyễn Hữu Hạnh.

Tháng 3 và 4/1975, đồng chí Tám Vô Tư thường gặp ông Nguyễn Hữu Hạnh. Sau khi Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đồng chí Tám Vô Tư gợi ý ông Hạnh nên tiếp cận và vận động Dương Văn Minh nếu lên làm Tổng thống thì tìm cách kết thúc cuộc chiến có lợi cho nhân dân.

Khi được tin ông Dương Văn Minh lên làm Tổng thống, ngày 28/4/1975, từ Cần Thơ, ông Nguyễn Hữu Hạnh bằng mọi cách, vượt mọi khó khăn lên Sài Gòn gặp Dương Văn Minh và được ông giao làm phụ tá Tổng tham mưu trưởng, thay Tổng tham mưu trưởng ở bên cạnh ông, sau đó là Quyền Tổng tham mưu trưởng. Với các cương vị này, ông Hạnh đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện lệnh của Tổng thống Dương Văn Minh làm cho quân đội Sài Gòn “án binh bất động”, tan rã tại chỗ, không nổ súng và thúc đẩy Chính phủ Dương Văn Minh sớm bàn giao chính quyền cho cách mạng.

2/ Thâm nhập vào “nhóm Dương Văn Minh”

Tháng 9/1972, Ban An ninh T4 (Thành phố Sài Gòn - Gia Định) thành lập Cụm điệp báo mới, bí số là A10, với nhiệm vụ xây dựng lực lượng điệp báo bí mật trong một số đối tượng, trong đó có lực lượng thứ ba, đặc biệt là “nhóm Dương Văn Minh”… (các thành viên bộ tham mưu nhóm Dương Văn Minh, ban biên tập bản tin nội bộ nhóm Dương Văn Minh, thư ký tòa soạn báo Điện Tín, báo Đại dân tộc…).

Đầu năm 1975, đồng chí Trần Quốc Hương (Mười Hương), Trưởng Ban An ninh T4, chỉ đạo A10 tìm cách thâm nhập vào lực lượng thứ ba và nhóm Dương Văn Minh để tác động, vận động lực lượng này chống đối, cô lập, chia rẽ chính quyền Nguyễn Văn Thiệu.

Thời gian này, Cụm điệp báo A10 tiếp cận, bám sát “nhóm Dương Văn Minh”, có lúc họa sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành) ở luôn trong nhà Dương Văn Minh; tham gia viết và in tuyên cáo “chống Chính phủ Thiệu không có Thiệu”, đòi Trần Văn Hương từ chức (Tổng thống).

Ngày 01/3 và cuối tháng 3/1975, đồng chí Huỳnh Bá Thành (lần sau có thêm các đồng chí Trần Thiếu Bảo, Huỳnh Huề…) vào căn cứ báo cáo với đồng chí Mai Chí Thọ (Bí thư thành ủy), Trần Thanh Vân (Phó trưởng Ban An ninh T4). Đồng chí Mai Chí Thọ chỉ đạo: “…Phải bằng mọi cách để Dương Văn Minh thay Nguyễn Văn Thiệu, rồi giao chính quyền cho cách mạng. Đó là chủ trương của Đảng nhằm tránh đổ máu, tránh tổn thất cho nhân dân”.

3/ Tác động vào Chính phủ Dương Văn Minh

Cụm điệp báo VĐ2 thuộc phòng tình báo chiến lược M22, cục tham mưu Miền cũng có chỉ đạo vận động tác động nội các Dương Văn Minh đầu hàng thông qua kỹ sư Tô Văn Cang trong những ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn. Theo ông Tô Văn Cang, sáng ngày 28/4/1975, ông Cang đến gặp Đại tá Nguyễn Văn Khiêm (Sáu Trí) ở nhà ông Ba Lễ (cơ sở tình báo) hẻm đường Triệu Đà, Sài Gòn, để báo ý kiến của ông Nguyễn Văn Diệp (trong Chính phủ Dương Văn Minh) muốn tìm gặp đại diện Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam để xin ý kiến xử trí tình hình Sài Gòn. Đồng chí Sáu Trí phân tích tình hình và “khuyên Chính phủ Dương Văn Minh chấp nhận đầu hàng vô điều kiện”. Ý kiến này được ông Cang phản ánh lại cho ông Diệp và sau đó ông Diệp có báo cáo lại cho bộ ba Dương Văn Minh – Nguyễn Văn Huyền – Vũ Văn Mẫu.

4/ Xây dựng lực lượng thứ ba ở đô thị

Sau hiệp định Paris (1973), Hội nghị lần thứ 21 Ban chấp hành Trung Ương (tháng 7/1973) đề ra nhiệm vụ: “Xây dựng lực lượng thứ ba ở đô thị”; “mở rộng hơn nữa Mặt trận dân tộc Giải phóng gồm mọi giai cấp, tôn giáo, lực lượng hòa bình, độc lập, dân chủ ở miền Nam và Việt kiều ở nước ngoài”.

Năm 1974, theo chỉ đạo của đồng chí Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh), Phó Bí thư Trung Ương Cục miền Nam, đồng chí Quốc Hương (Mười Hương), Ủy viên Thường vụ, Trưởng Ban An ninh T4 đã chọn một số thanh niên, sinh viên cài vào hoạt động trong lực lượng thứ ba.

Trên thực tế thì lực lượng ta đã hình thành trước khi có hiệp định Paris qua tổ chức “Lực lượng quốc gia tiến bộ” do luật sư Trần Ngọc Liễng và nhà tư sản dân tộc (ngành vật liệu xây dựng) Phan Văn Mỹ thành lập tháng 6/1969 với mục tiêu là: đòi các lực lượng ngoại nhập (Mỹ và đồng minh) phải rút khỏi miền Nam, thành lập chính phủ hòa giải dân tộc. Sau đó, lợi dụng lúc Thiệu đi nước ngoài, luật sư Trần Ngọc Liễng lập “Lực lượng hoà giải dân tộc”. Sau hiệp định Paris, tháng 02/1974, nhóm luật sư Trần Ngọc Liễng lập “Tổ chức nhân dân đòi thi hành hiệp định Paris”, xác định mình là lực lượng thứ ba, mục tiêu chính là đòi thi hành hiệp định Paris, Mỹ rút quân, thành lập Chính phủ hoà giải dân tộc.

Thành viên của “nhóm Dương Văn Minh” gồm một số trí thức, dân biểu đối lập, ký giả, tướng lĩnh Hằng tuần, nhóm họp bàn về tình hình thời sự chính trị (lúc tình hình sôi động mỗi tuần họp hai lần). Cạnh tướng Dương Văn Minh có Văn phòng báo chí. Lúc báo Điện tín bị đóng cửa, “nhóm Dương Văn Minh” ra bản tin bán công khai để phát cho các tổ chức, đoàn thể, báo chí trong và ngoài nước.

- Theo ông Lý Quý Chung (Hồi ký), tuần lễ đầu tháng 4/1975, tướng Dương Văn Minh và “nhóm Dương Văn Minh” đã họp tại Dinh Hoa Lan (nhà ông Minh) bàn và quyết định công bố ý định thay thế Nguyễn Văn Thiệu để góp phần chấm dứt chiến tranh.

5/ Phối hợp phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân Sài Gòn

Với các khẩu hiệu “đuổi Mỹ, lật Thiệu”, đòi Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đòi thi hình hiệp định Paris, hòa bình, chấm dứt chiến tranh, đòi dân chủ, cải thiện dân sinh… các cuộc xuống đường diễn ra liên tục, mạnh mẽ thu hút hàng ngàn, hàng vạn người. Như cuộc xuống đường của 200 ký giả Sài Gòn ngày 10/10/1974, ngày “ký giả đi ăn mày” lôi cuốn gần hai vạn quần chúng tham gia đã có tiếng vang lớn cả trong và ngoài nước. Cuộc tuần hành ngày 20/4/1974 của hàng vạn công nhân lao động, sinh viên, học sinh, trí thức, thương phế binh… đòi Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đòi thi hành hiệp định Paris, đòi hòa bình, cơm áo, chống sa thải, chống thuế VAT…, là cuộc đấu tranh lớn nhất từ sau hiệp định Paris.

 

MỸ, PHÁP VỚI TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH

* Mỹ: Năm 1971, Mỹ yêu cầu Dương Văn Minh ra tranh cử Tổng thống với Nguyễn Văn Thiệu để tỏ ra chế độ Cộng hòa miền Nam có dân chủ, nhưng phải thất cử để trở thành lãnh tụ của phe đối lập trong nghị viện. Tướng Dương Văn Minh từ chối. Đại sứ Mỹ Bunker còn trắng trợn hỏi ông Minh cần bao nhiêu đô-la cho cuộc tranh cử. Ông Minh cố nén giận, nhưng giữ lịch sự, đưa tay chỉ đại sứ Mỹ về phía cửa phòng (không tiếp đại sứ Mỹ nữa). Cuộc bầu cử đó, Tướng Dương Văn Minh có ra ứng cử, nhưng đến giờ chót quyết định rút lui, chỉ còn Nguyễn Văn Thiệu trở thành ứng cử viên Tổng thống “độc diễn”, làm bẽ mặt Mỹ – Thiệu.

Sau khi Thiệu từ chức, Phó tổng thống Trần Văn Hương lên thay tổng thống, tuyên bố “cương quyết tử thủ dù phải hi sinh đến nắm xương tàn”, đã bị nhân dân và báo chí Sài Gòn đấu tranh đòi Chính phủ Trần Văn Hương từ chức ngay lập tức. Trần Văn Hương trì hoãn việc giao quyền cho Dương Văn Minh, mãi đến ngày 26/4/1975, lưỡng viện Sài Gòn đã bầu Dương Văn Minh làm Tổng thống Việt Nam Cộng hòa với 147/151 phiếu.

* Pháp: Theo đồng chí Phan Nhẫn, ngày 27 (hoặc 28/4/1975), Bộ Ngoại giao Pháp gặp đồng chí Phạm Văn Ba (Giám đốc Trung tâm thông tin Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam) gợi ý Chính phủ Cách mạng lâm thời nên đi vào đàm phán. Lúc đó, Pháp hi vọng “giải pháp Dương Văn Minh” và khả năng thương lượng với Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam.

Theo chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh và ông Lý Quý Chung, sáng ngày 30/4/1975, tướng tình báo Pháp Vanuxem đến Phủ thủ tướng (số 7 Thống Nhất, nay là đường Lê Duẩn) gặp Tổng thống Dương Văn Minh, gợi ý ông Minh nên kêu gọi Trung Quốc can thiệp để cứu miền Nam không rơi vào tay Cộng sản Bắc Việt. Ông Minh từ chối, nói rằng: “Tôi đã từng làm tay sai cho Pháp rồi cho Mỹ, đã quá đủ rồi. Tôi không thể tiếp tục làm tay sai cho Trung Quốc”.

 

TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH VỚI 3 NGÀY LÀM TỔNG THỐNG

15 giờ chiều ngày 28/4/1975, Tướng Minh làm lễ nhậm chức Tổng thống, cử Nguyễn Văn Huyền làm Phó tổng thống, Vũ Văn Mẫu làm Thủ tướng.

Tổng thống Dương Văn Minh cử một số Bộ trưởng và người phụ trách quân đội, cảnh sát, trong đó có đảng viên và cơ sở của ta là: Luật sư Triệu Quốc Mạnh, Giám đốc Nha cảnh sát đô thành, và chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, phụ tá Tổng tham mưu trưởng sau làm quyền Tổng tham mưu trưởng.

Về Bộ quốc phòng, Tổng thống Dương Văn Minh chỉ định Giáo sư Bùi Tường Huân, Giáo sư Đại học Huế (không phải tướng tá) làm Bộ Trưởng. (Theo ông Lý Quý Chung, việc Tổng thống Dương Văn Minh chỉ định ông Bùi Tường Huân làm Bộ trưởng quốc phòng để chứng tỏ chính phủ này không muốn chiến tranh).

17 giờ ngày 28/4/1975, phi đội 5 chiếc A37 của Nguyễn Thành Trung ném bom sân bay Tân Sơn Nhất.

Theo ông Hồ Ngọc Nhuận (Hồi ký), tối hôm đó, Tướng Minh giao cho ông chuẩn bị chiếm đài phát thanh (đề phòng Nguyễn Cao Kỳ làm đảo chính).

Đêm 28/4, Tướng Dương Văn Minh và gia đình dời đến ở nhà một người bạn của tướng Mai Hữu Xuân ở đường Phùng Khắc Khoan do sợ Nguyễn Cao Kỳ ném bom dinh Hoa Lan (nhà ông Minh).

Theo cựu dân biểu Dương Văn Ba (Hồi ký), đêm 28/4/1975, hai đại tá phi công lái hai máy bay trực thăng phục vụ tổng thống đậu trên nóc dinh Độc Lập, gặp Tổng thống Dương Văn Minh đề nghị đưa Tổng thống và tất cả những người trong bộ tham mưu tổng thống và gia đình bay ra Đệ Thất Hạm Đội. Ông Minh trả lời: “Hai em có thể yên lòng lái máy bay ra Đệ Thất Hạm Đội, bất cứ ai có mặt ở đây muốn đi theo thì có thể ra đi. Phần tôi, tôi nhất quyết không đào ngũ bỏ chạy; không thể nào bỏ dân chúng Sài Gòn, không thể nào bỏ miền Nam như con rắn mất đầu”.

Ngày 29/4/1975

Tổng thống Dương Văn Minh, Phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền và Thủ tướng Vũ Văn Mẫu bàn và ra lệnh cho Giám đốc Nha cảnh sát đô thành Triệu Quốc Mạnh thả tù binh chính trị; gửi công văn yêu cầu Đại sứ Mỹ Martin cho cơ quan Viện trợ quân sự Mỹ (DAO) rời khỏi Việt Nam trong vòng 24 giờ để giải quyết hòa bình ở Việt Nam.

Đến 16 giờ chiều ngày 29/4, đã thực hiện xong việc trả tù binh chính trị (trong đó có Huỳnh Tấn Mẫm). Chỉ huy các ban và cảnh sát 18 quận, huyện đã tan rã (trừ bộ phận biệt phái).

Tổng thống Dương Văn Minh chỉ thị không được di chuyển quân, không được phá cầu. Dựa vào chỉ thị trên, chiều ngày 29/4/1975, phụ tá Tổng tham mưu trưởng Nguyễn Hữu Hạnh đã ra lệnh cho các đơn vị không được phá cầu. Đơn vị nào muốn phá cầu phải có lệnh của Bộ Tổng tham mưu.

Sau đó, khoảng 15 giờ, phái đoàn do Luật sư Trần Ngọc Liễng cầm đầu có Linh mục Chân Tín, Giáo sư Châu Tâm Luân vào Trại David, được đồng chí Võ Đông Giang, Phó trưởng phái đoàn ta tiếp. Ông Liễng đã thông báo với phái đoàn ta về chủ trương “không chống cự” của Tổng thống Dương Văn Minh, mà ông coi là niềm vui sướng nhất trong đời ông, vì đã thông báo cho bên trong biết “Sài Gòn không chống cự” vào giờ chót của cuộc chiến tranh. Theo Luật sư Liễng, Tổng thống Dương Văn Minh đã chấp nhận đầu hàng từ buổi trưa hôm đó (ngày 29/4/1975).

Từ chiều và tối ngày 29/4, cũng có một số người tác động Tổng thống Dương Văn Minh hướng “Thành phố để ngõ”, đầu hàng. Như ông Lý Quý Chung, họa sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành). Thông qua ông Phan Xuân Huy và ông Đoàn Mai, thượng tọa Thích Trí Quang nói điện thoại trực tiếp với Tổng thống Dương Văn Minh: “còn chờ gì nữa mà không đầu hàng”.

Ngày 30/4/1975

- 6 giờ, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh quyền Tổng tham mưu trưởng (tướng Vĩnh Lộc, Tổng tham mưu trưởng đã chuồn) và tướng Nguyễn Hữu Có đến báo cáo với Tổng thống Dương Văn Minh về toàn bộ tình hình quân sự. Sau đó, ông Minh (cùng các ông Hạnh và Có) đến Phủ Thủ tướng (số 7 Thống nhất, nay là đường Lê Duẩn).

Tổng thống Dương Văn Minh họp với Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu và một số người trong nội các “nhóm Dương Văn Minh”, bàn và quyết định không nổ súng và giao chính quyền cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam. Thủ tướng Vũ Văn Mẫu soạn bản thảo tuyên bố này.

- 9 giờ, Tổng thống Dương Văn Minh đọc vào máy ghi âm.

Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh đề nghị và được Tổng thống Dương Văn Minh đồng ý có nhật lệnh cho quân đội. Ông Hạnh soạn thảo nhật lệnh này. Đồng thời tướng Nguyễn Hữu Hạnh gọi điện thoại cho tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh Quân khu 4 yêu cầu cố gắng thi hành lệnh của Tổng thống trên đài phát thanh.

9 giờ 30: Đài phát thanh phát tuyên bố của Tổng thống Dương Văn Minh: “Đường lối của chúng tôi là hòa giải và hòa hợp dân tộc”; “yêu cầu tất cả anh em chiến sĩ Cộng Hòa ngưng nổ súng, và ở đâu thì ở đó”; “Chúng tôi chờ gặp Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam để thảo luận về lễ bàn giao chính quyền trong vòng trật tự, tránh sự đổ máu vô ích cho đồng bào”.

Sau đó, cả các ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu cùng nội các đến Dinh Độc Lập để chờ bàn giao chính quyền cho cách mạng.

Sau khi đọc tuyên bố “đầu hàng” xong, Tướng Dương Văn Minh nói với mọi người (trong Chính phủ): “Mọi việc coi như đã xong. Bây giờ ai muốn đi hay ở thì tùy”.

11 giờ 30, xe tăng quân giải phóng vào Đinh Độc Lập. Xe quân giải phóng đưa ông Dương Văn Minh và ông Vũ Văn Mẫu đến đài phát thanh để đọc tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.

 

KẾT LUẬN

1/ Tướng Dương Văn Minh là người có tinh thần dân tộc, yêu nước. Từ chỗ lúc đầu còn mơ hồ về việc Mỹ xâm lược miền Nam, cho rằng Mỹ có giúp đỡ miền Nam, dần dần tỏ thái độ chống Mỹ: chống Mỹ đưa quân viễn chinh Mỹ và đồng minh vào miền Nam, kéo dài và mở rộng chiến tranh, muốn có hòa bình, độc lập và hòa hợp dân tộc.

2/ Theo ông Nguyễn Hữu Hạnh và ông Lý Quý Chung, Tướng Dương Văn Minh lên làm Tổng thống không có ý để thương thuyết với cách mạng vì đã thấy không còn khả năng thương thuyết; cũng không có ý để tiếp tục chiến tranh vì lâu nay ông Minh chủ trương hoà bình, chấm dứt chiến tranh. Điều này thể hiện rõ ở Tổng thống Dương Văn Minh chỉ định hai cơ sở của ta (chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh và luật sư Triệu Quốc Mạnh) nắm hai lực lượng vũ trang: quân đội và cảnh sát; cử một người dân sự (giáo sư Bùi Tường Huân) làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; chưa đầy một ngày sau khi nhậm chức thì ngày 29/4/1975, đã ra lệnh thả tù chính trị, đuổi phái đoàn DAO của Mỹ; không di chuyển quân, không phá cầu v.v..

3/- Trong điều kiện cuộc tổng tiến công quân sự của các binh đoàn chủ lực kết hợp với cuộc tiến công và nổi dậy của các lực lượng vũ trang và quần chúng ở thành phố Sài Gòn – Gia Định đã tạo sức ép quân sự lớn; công tác vận động, binh địch vận của nhiều lực lượng ta với Tướng Dương Văn Minh; được sự đồng tình, tác động tích cực của những người chủ yếu trong nội các, lực lượng thứ ba và “nhóm Dương Văn Minh”; Tổng thống Dương Văn Minh đã quyết định “không chống cự”, tuyên bố “ngưng nổ súng và ở đâu ở đó vào 9g30 (sau đó tuyên bố “đầu hàng vô điều kiện” vào 11g30) ngày 30/4/1975 là hành động thức thời, làm giảm ý chí đề kháng của đại bộ phận quân đội Sài Gòn vào những giờ chót của cuộc chiến tranh, tạo thuận lợi cho quân giải phóng tiến nhanh vào giải phóng hoàn toàn thành phố Sài Gòn còn nguyên vẹn và không đổ máu. Nhiều thành phố và thị xã khác cũng được giải phóng nguyên vẹn, ít tổn thất. Chúng ta biết rõ giành được thắng lợi to lớn này, cuộc tổng tiến công của các quân đoàn kết hợp với các cuộc tiến công và nổi dậy của lực lượng vũ trang và quần chúng địa phương đóng vai trò quyết định. Tuy nhiên, công bằng mà nói, hành động thức thời của Tổng thống Dương Văn Minh và nội các của ông đã góp phần làm cuộc chiến kết thúc sớm, tránh đổ nhiều xương máu của binh sĩ và nhân dân, thành phố Sài Gòn và nhiều đô thị còn nguyên vẹn. Đó là nghĩa cử yêu nước, thương dân của ông Dương Văn Minh.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 30/10/2004

 

____________

(1) Nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế – xã hội – thương binh Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam.

(2) Phát biểu của ông Dương Văn Minh trong cuộc Thượng tướng Trần Văn Trà, Chủ tịch Ủy ban quân quản TP. Hồ Chí Minh tuyên bố trả quyền công dân cho toàn bộ viên chức Chính phủ “Việt Nam Cộng Hoà”.

(3) Bộ đội Nam bộ tập kết ra Bắc, ở Sư đoàn 330. Sau đó chuyển ra nông trường quân đội.

(4) Sách “Gởi người đang sống” (tr 334-335) của Thượng tướng Trần Văn Trà.