“CÁI TÔI ĐÁNG GHÉT.”
Bằng Phong Đặng văn Âu.
“Cái tôi đáng ghét” là quá đúng! Đó
là câu nói của một nhà tư tưởng lừng danh Blaise Pascal, mà mọi người đều khen
lấy khen để, dễ gì mình nói khác mà người ta nghe?
Thời tôi còn học ở bậc Trung Học,
thầy giáo dạy văn thường bắt học trò tập làm văn bằng cách ra những đề tài nghị
luận luân lý hoặc nghị luận văn chương. Một hôm thầy ra một bài nghị luận luân
lý như sau: “Các em hãy bình luận câu nói của nhà tư tưởng Blaise Pascal: Cái
tôi đáng ghét”. Tất cả học sinh trong lớp đều tỏ ra đồng ý với câu nói
của nhà tư tưởng, đều chê bai “Cái tôi” một cách thậm tệ. Chỉ có bài bình luận
của tôi là khác thường. Tôi viết rằng tuy “Cái tôi” có chỗ đáng ghét thật,
nhưng không phải nó đáng ghét trong tất cả mọi trường hợp. Ví dụ Ngài Trần Thủ
Độ nói “Cái Tôi” với vua Trần Thái Tông một câu bất hủ: “Đầu thần (tôi)
chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo”, khi quân Nguyên sang xâm chiếm
nước ta lần đầu. Hoặc tiếng quát khẳng khái của người anh hùng Trần Bình Trọng
vào mặt quân Tàu: “Ta (tôi) thà làm quỷ nước Nam, còn hơn làm Vương đất
Bắc”. Vậy cái tôi của Trần Thủ Độ và của Trần Bình Trọng đáng nể trọng,
chứ đâu có đáng ghét, phải không?
Nếu ghét cái tôi, thì trong tiếng
Việt làm gì có chữ “tự ái” (self-love hoặc pride)? Do đó, không
phải cái tôi lúc nào cũng đáng ghét. Đôi khi chúng ta cần yêu cái tôi của mình
(tự ái) để có lòng tự trọng. Ví dụ: Khi một ai đó thấy mình đói, cho mình 10
đồng bạc mua khúc bánh mì để ăn, mà tỏ ra khinh bỉ bằng cách ném tờ bạc xuống
đất, thì dù có đói đến mấy cũng không nên cúi xuống nhặt lên. Ở đời, hơn thua
nhau là biết lúc nào sử dụng lòng tự ái để người khác kính trọng.
Ông Thầy dạy văn khen nức nở bài
bình luận của tôi, vì tính chất phản biện. Ông còn khuyên tôi mai sau nên theo
học ngành Luật thì rất hợp khả năng. Thế nhưng, định mệnh đã an bài, tôi trở
thành một phi công cứng đầu, cứng cổ. May mắn sống dưới chế độ tự do của Miền
Nam, nên tôi không bị “súc vật hóa” để phải giả bộ đui mù, câm điếc. Tôi có thể
nói ra suy nghĩ của tôi mà không sợ bị trừng trị.
Lớn lên vào thời buổi chiến tranh,
tôi đã tình nguyện gia nhập Quân đội để làm tròn trách nhiệm công dân. Trình độ
học vấn: Biết đọc, biết viết. Đọc một cuốn sách, đọc một bài thơ, tôi biết nó
hay dở ở điểm nào. Nghĩ điều gì trong đầu, tôi biết cách viết ra để độc giả
hiểu mình muốn nói điều gì. Tôi không phải là học giả. Tôi học thiệt. Học ở
đâu? Học ở trường đời! Cái trường không phát bằng cấp cho ai cả. Tuy không có
bằng cấp, nhưng tôi không bao giờ mang mặc cảm thua kém các vị khoa bảng. Vì là
phi công, tôi được xếp vào loại người ăn cơm dưới đất làm việc trên trời. Khi
không có mục tiêu để tác xạ, bay bao vùng giữa trời cao về đêm, tôi thường miên
man tự hỏi: “Tại sao một dân tộc thông minh, bản tính chất phác, hiền lành,
mà lại có thể chém giết nhau một cách dã man, tàn bạo, không một chút nương
tay?”
Chẳng rõ kiếp trước tôi thuộc chủng
tộc nào: Da vàng, da trắng, da đen hay da đỏ? Nhưng kiếp này được đầu thai
trong bụng người Mẹ Việt Nam, tôi luôn luôn tự dặn lòng: Nếu không lập nên công
trạng gì đáng kể để đền ơn Đất Nước đã nuôi dưỡng mình, thì đừng làm bất cứ
điều gì khiến cho thanh danh nòi giống Việt Nam bị tổn thương, bằng cách sống
thật thà, lương thiện, không điêu ngoa dối trá, không ăn cắp và không sợ sự
khủng bố. Dưới mỗi bài viết, tôi đều ghi rõ bút hiệu, tên thật do cha mẹ
đặt, địa chỉ nơi cư trú, số điện thoại, không phải để khoe danh tánh với mọi
người, mà vì muốn nói với độc giả rằng đây là người lính chính quy của Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa, tuy không còn vũ khí sát thương trong tay, nhưng còn một thứ
vũ khí không thể hư hoại để chống lại Việt Cộng và bọn làm bạc giả, bọn kháng
chiến bịp làm mất NIỀM TIN vào lý tưởng Quốc gia. Đó là Sự Thật!
Nhận thấy cuộc đấu tranh vì Sự Thật
còn cao quý hơn người đi tu, vì tôi không màng danh lợi, chức tước. Người tu
theo Phật giáo tìm nơi thành tịnh, nhưng còn mong ước trở thành Thượng Tọa, Hòa
Thượng, Tăng Thống. Người tu theo Công giáo còn mong ước trở thành Linh mục,
Giám mục, Hồng y hoặc Giáo hoàng. Còn tôi là loại người đi tu giữa chợ, chấp
nhận những lời chửi rủa của ma quỷ, mà lòng vẫn phơi phới hân hoan, không bận
tâm, không cần đáp trả.
Vì sinh ra trong dòng họ có Ông Bà,
Cha Mẹ theo Phật giáo, tôi đương nhiên trở thành Phật tử. Nhưng Đạo Phật ngày
nay đã bị Việt Cộng “quốc doanh hóa” từ trong nước ra hải ngoại, tượng tên tội
đồ dân tộc Hồ Chí Minh được xếp ngồi ngang với Đức Thích Ca để tín đồ vào vái
lạy, mà những Phật tử không dám hé răng, thì đức “vô úy” của Nhà Phật không
còn. Do đó, tôi tình nguyện theo chân Chúa Jesus để đồng hành với Ngài nhằm
chiến đấu cho Sự Thật, giống như cố Tổng thống Ngô Đình Diệm dõng dạc nói:
“Chết là cùng! Việc gì phải sợ?”. Trong mắt tôi, Đức Jesus là nhà cách mạng
được Thượng Đế sai xuống trần gian để cải tạo xã hội.
Tâm lý người Việt Nam thời trước,
trong dân gian có câu “Theo đạo, có gạo mà ăn”. Tôi không rõ động cơ nào đã
khiến bác sĩ Đặng văn Sung, giáo sư Vũ Quốc Thúc, Chủ tịch Tập thể Chiến sĩ
VNCH Nguyễn Xuân Vinh xin rửa tội theo Đạo Chúa. Còn tôi, tôi theo đạo Chúa, vì
tôi thấy được sự mầu nhiệm của Thiên Chúa qua sự chiến thắng của nhà tỷ phú
Donald Trump chống lại cái đám ma quỷ lúc nhúc trong đầm lầy ở Hoa Thịnh Đốn.
Là một tỷ phú, ông Trump có vợ đẹp,
con ngoan và cuộc sống vương giả. Nếu không vì lòng thiết tha yêu nước, ông
Trump cứ bình an thụ hưởng, thì có nhiều đứa đến xin tiền của ông để tranh cử.
Vì bất bình với sự dối trá, đạo đức giả của đám chính trị gia bất lương, tỷ phú
Donald Trump nói ra Sự Thật. Tất nhiên bọn chính trị gia bẩn thỉu, bọn làm
truyền thông lưu manh sợ Sự Thật, phải tấn công ông bằng những cú đấm dưới thắt
lưng quần. Điều gì đã giúp ông Trump can đảm và sức mạnh để bất chấp sự tấn
công nhớp nhúa của bọn khuynh tả chạy theo xã hội chủ nghĩa? Tại vì ông Trump
có Niềm Tin mạnh mẽ nơi Thiên Chúa qua câu nói: “Nhân dân Hoa Kỳ chỉ quỳ gối
trước Thiên Chúa mà thôi!” (tức là chỉ quỳ trước tổ tiên, ông bà cha mẹ mình,
chứ không quỳ trước bọn quỷ sứ ma vương). Tôi cũng vậy! Nhất định không quỳ
trước quỷ sứ, ma vương.
Tôi rất mong muốn chiến tranh sớm
chấm dứt để mình được sống sót, trở về đời sống dân sự, chăm sóc mẹ già cho
tròn chữ hiếu và lo chu toàn bổn phận làm chồng, làm cha cho tròn đạo nghĩa phu
thê. Mỗi lần thấy Mẹ ra đứng giữa trời trong đêm khuya, thắp hương van vái Trời
Đất cho thằng con trai độc nhất không bị tử vong trong chiến trận, lòng tôi xót
xa vô cùng. Hoặc khi lặng lẽ rời nhà lúc sáng sớm, vào căn cứ thi hành phi vụ,
nhìn thấy vợ con đang yên giấc, tôi thầm cầu mong rằng hôm nay không phải là
phi vụ cuối cùng. Tôi mơ ước khi đất nước thanh bình, đưa vợ con đi thăm thú
những thắng cảnh của quê hương và ngồi kể chuyện cho con cái nghe về cuộc đời
bay bổng của mình. Không ngờ có ngày mình ngồi viết chuyện thế sự trên đất nước
người để bị những cái thứ cà lơ thất thểu, đầu đường xó chợ buông lời hỗn láo,
mất dạy mà đành bó tay. Giá như đoán trước mình có ngày ngồi gõ bàn phím
computer trong đêm khuya để viết truyện lịch sử, tôi đã bắt chước giáo sư Đoàn
Thêm ghi chép “Việc Từng Ngày”, thì những gì tôi viết sẽ được coi là biên niên
sử. Thôi thì đành viết “Ngoại Sử”, giống như khi làm Chủ bút Giai phẩm Lý Tưởng
Không Quân, tôi đã thực hiện cuốn “Không Quân Ngoại Truyện” vậy.
Tuy mang danh là “Ngoại Sử” nhưng
rất khả tín, bởi vì tôi không viết dưới sự chỉ đạo của đoàn thể nào, cá nhân
nào. Tôi không viết để lãnh tiền nhuận bút hoặc mua vui thiên hạ. Tôi viết vì
có những sự kiện lịch sử mà các sử gia không biết hoặc không dám viết. Tôi tin
rằng sở dĩ nước Việt Nam đã bị mất vào tay Việt Cộng và rồi nòi giống Việt Nam
sẽ không còn là do lời nguyền rủa của những oan hồn người Chàm dùng đảng Cộng
Sản làm công cụ để hủy diệt nòi giống Tiên Rồng. Tôi viết để mai sau những nhà
nhân chủng học đỡ mất công tìm hiểu vì nguyên nhân nào mà nòi giống Việt Nam đã
biến mất.
Trong cuộc họp thống nhất đảng Đại
Việt vào năm 1988, có sự hiện diện của bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn, bác sĩ Đặng văn
Sung, kỹ sư Hà Thúc Ký, Đại sứ Bùi Diễm, giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, Tiến sĩ
Nguyễn văn Canh, anh Đặng văn Đệ, anh Đào Nhật Tiến, anh Lê tấn Trạng, anh
Nguyễn văn Ánh và tôi. Cụ Cung Đình Quỳ – Bộ trưởng Bộ Canh Nông trong
Chính phủ Trần trọng Kim, 92 tuổi – Chủ toạ phiên họp. Sau một hồi hạch
tội các đồng chí lãnh đạo, cụ Quỳ kết luận: “Kể từ nay, tôi muốn các đồng
chí phải đoàn kết nhất trí một lòng để phất ngọn cờ Đại Việt giải phóng đất
nước khỏi ách đô hộ cộng sản.” Lúc bấy giờ ai nấy đều răm rắp nghe chỉ thị
của đồng chí Niên trưởng. Riêng tôi lên tiếng phản đối: “Trong cuộc đấu
tranh này, chúng ta cần một Ngọn Cờ Dân Tộc để kết hợp toàn dân. Hãy quên đi Ngọn
Cờ Đại Việt, để tự bản thân thoát ra khỏi tinh thần cục bộ, thì mới hết lòng vì
nước vì dân. Bao lâu còn coi lớn “Cái Tôi”, thì cuộc tranh đấu không bao
giờ thành công.”
Mọi người trong bàn Hội nghị sững
sờ, vì không ngờ một “cậu” đồng chí đáng tuổi con của các lãnh tụ mà dám mở lời
phản đối “Cái Tôi” của lãnh tụ vào hàng cha chú? Nhưng làm sao các lãnh tụ
khiển trách “cậu” đồng chí đàn em được, khi mà lời nói của nó quá đúng? Tôi
trách các anh lớn đã không thi hành lý tưởng “Dân Tộc Sinh Tồn” do đồng chí
đảng trưởng Trương Tử Anh đề ra, vì anh Ký và anh Huy chia rẽ nhau. Tôi còn nói
đảng không có biện pháp kỷ luật như trong Nội Quy của đảng là đảng đã tự mình
xóa vai trò lãnh đạo quần chúng. Đó là sự im lặng trước sự kiện đồng chí Nguyễn
văn Thiệu bỏ đảng và ra lập riêng đảng Dân Chủ. Ra Hải ngoại, các anh cũng im
lặng trước cái việc Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh lập Mặt Trận Kháng Chiến để lừa
đồng bào, thì một lần nữa đảng lại đánh mất vai trò lãnh đạo quần chúng. Niềm
tin của quần chúng vào lý tưởng diệt Cộng cứu nước không còn, thì dù hôm nay
đảng đi đến thống nhất đi nữa, cũng chẳng làm được gì. Hãy khoan nghĩ tới
chuyện giải phóng dân tộc. Hãy cố gắng bảo vệ phòng tuyến của mình ở Hải ngoại
để Cộng Đồng không bị Việt Cộng xâm nhập. Tôi đã làm cho không khí buổi họp trở
nên căng thẳng. Anh chủ nhà – Thiếu tá KQ Nguyễn Quan Vĩnh, cùng khóa
với tôi hiện ở San José – tiến tới mời mọi người ngừng họp để dùng buổi
trưa. Ông anh của tôi – bác sĩ Đặng văn Sung – gọi tôi lại, khiển
trách: “Cái thói nhà binh của chú bao nhiêu năm nay cũng không chịu bỏ.
Những lời phát biểu vừa rồi của chú, làm cho anh Ký và anh Huy buồn lắm đấy!”.
Lễ giáo của dòng họ Đặng rất nghiêm. Em út không được phép đối đáp, khi đàn anh
dạy bảo. Tôi phải cẩn thận xin phép: “Thưa anh, em nghĩ rằng cuộc họp hôm
nay là để mổ xẻ vấn đề tại sao nước mình mất vào tay cộng sản. Mà mổ xẻ, ắt
phải đau đớn. Nếu không chịu được đau, thì căn bệnh không thể chữa. Em cũng
biết cách nói để làm đẹp lòng các anh, mhưng để làm gì? Xin anh tha tội cho em,
đây là lúc chúng ta cần nói thật, nói thẳng với nhau”.
Tiến sĩ Nguyễn văn Canh, hiện còn
sống ở San José được đảng giao phó soạn thảo phương sách kết hợp giữa đảng của
anh Ký và đảng của anh Huy. Những phiên họp kế tiếp, tôi không được đảng mời
tham dự, vì không muốn sự có mặt của thằng đàn em dám nói Sự Thật. Hình như
chừng ba hay bốn tháng sau đó, người ta đọc thấy trên báo tuyên cáo của anh
Nguyễn Tôn Hoàn và anh Hà Thúc Ký khai trừ lẫn nhau. Chẳng phải là người giỏi
tiên đoán thời cuộc, nhưng sau buổi họp gọi là Thống Nhất Đại Việt, tôi biết
trước thế nào Đại Việt cũng tan rã, vì nghiệp chướng của dân tộc còn nặng lắm,
chưa thể dứt được: “Đố ai đoàn kết được với ai”!
Thuật lại câu chuyện Thống Nhất Đại
Việt để bạn đọc hiểu rằng tôi là người không ngần ngại nói lên Sự Thật, dù
trước mặt mình là các vị lãnh tụ thuộc hàng cha chú.
– Tôi là người duy nhất dám nói Tổng thống Ngô
Đình Diệm – người cha đẻ nền Đệ nhất Cộng Hòa – bị ma đưa
lối quỷ đưa đường nên mới ra lệnh cho Đại tá Nguyễn văn Y – Tổng Giám
đốc Cảnh Sát Quốc gia – đốt tất cả hồ sơ do cơ quan Tình báo Phản gián
cung cấp cho biết Tướng Dương văn Minh thông đồng với Việt Cộng, để cuối cùng
bị Dương văn Minh làm đảo chánh và giết một cách tàn bạo.
– Tôi là người duy nhất dám nói thẳng với Tướng Nguyễn
Cao Kỳ, người cha đẻ nền Đệ nhị Cộng Hòa, rằng ông bị quỷ ám nên mới
nhường cho Tướng Nguyễn văn Thiệu tranh chức Tổng thống. Ông Thiệu là người
phản Tổng thống Ngô Đình Diệm và phản đảng Đại Việt.
– Tôi là người duy nhất dám nói thẳng vào mặt ông Phó
Đề đốc Hải quân Hoàng Cơ Minh (khi ông chưa thành lập Mặt Trận Kháng Chiến): “Nếu
anh làm kháng chiến giải phóng Việt Nam giống như anh nói với tôi vừa rồi, anh
sẽ trở thành thảo khấu”. Quả nhiên sau này ông Minh thú nhận với Nguyễn
Xuân Nghĩa thà rằng làm một tên thảo khấu chết trong rừng, hơn là làm một người
tị nạn sống qua ngày trên đất Mỹ.
– Tôi là người dám khẳng định rằng nòi giống Việt
Nam rồi đây sẽ không còn, bằng những lập luận rất toán học. Tới nay, chưa một
ai phản biện lập luận của tôi.
– Tuy không phải là nhà tiên tri, tôi là người dám nói
nguyên nhân cái chết của nền văn minh Hoa Kỳ là từ chiến tranh Việt Nam. Tiến
sĩ Peter Navarro viết cuốn sách “Death By China” chỉ là hậu quả. Nguyên nhân
cái chết của nước Mỹ là do chiến tranh Việt Nam mà ra. Nếu tôi được mời họp tại
Lubbock, Tiểu bang Texas để trả lời câu hỏi tại sao Việt Nam Cộng Hòa thua Việt
Cộng, thì tôi có câu trả lời khác hẳn lý do của các học giả Việt Nam và Tướng
lĩnh Việt Nam. Hoa Kỳ thua Việt Cộng là do bị quỷ ám. Bởi vì sức mạnh quân sự
của Hoa Kỳ có thừa để đè bẹp Việt Cộng lẫn Trung Cộng. Nhưng họ không ra tay,
vì Hoa Kỳ cũng bị quỷ ám giống như những trí thức ở Miền Nam chạy theo cộng sản
vậy.
Dù năm 2024 ông Donald Trump ra
tranh cử chức Tổng thống và thắng cử, ông có thể phục hồi nền kinh tế, nhưng
không thể phục hồi đạo đức của nước Mỹ. Bởi vì đà tiến của văn minh kỹ thuật
quá mạnh, quá nhanh và đạo đức có xu hướng đi ngược chiều cũng quá mạnh. Phương
châm “In God We Trust” sẽ nhạt phai dần và thay vào đó là “In the
Evil We Trust” sẽ thắng thế do bọn truyền thông ma quỷ nhồi sọ vào óc quần
chúng. Giấc mơ Mỹ sẽ biến thành ác mộng địa ngục trần gian, một khi kế hoạch
thống trị toàn cầu của Trung Cộng thực hiện xong.
“Cái Tôi (của Bằng Phong) Đáng Ghét”
thực! Nhưng Bằng Phong nói Sự Thật do được Thiên Chúa mặc khải, chứ tôi không
hề có mục đích đề cao cái viễn kiến của mình. Ai ghét “Cái Tôi của tôi” là
quyền của họ! Nền văn minh của nhân loại sẽ không còn, một khi chủ nghĩa vô
thần thống trị. Đó là một khẳng định, chẳng còn gì để nghi ngờ.
Vừa viết đến đây, có anh bạn ở Nhật
gửi cho xem cái video clip này, mời quý vị mở xem.
Bằng Phong Đặng văn Âu, ngày 10
tháng 11 năm 2022.
Địa chỉ nhà: 10200 Bolsa Avenue,
Westminster, California 92683
Địa chỉ Email: bangphongdva033@gmail.com Telephone: 714 – 276 – 5600
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.